Thứ Tư, 21 tháng 8, 2013

VU LAN BÁO HIẾU

Hiểu nguồn gốc để đón lễ Vu Lan thêm trọn vẹn.

Khi nhắc đến hai từ Vu Lan, bất kỳ người con hiếu thảo nào cũng chợt se lòng, bởi lẽ Phật tính trong những tấm lòng hiếu hạnh một lần nữa được hâm nóng. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết nguồn gốc của ngày lễ trọng đại này.
Rằm tháng Bảy, được giới tăng ni Phật tử gọi là lễ Vu Lan, là dịp đặc biệt để con cái báo hiếu bậc sinh thành và tổ tiên đã khuất. Theo tín ngưỡng, rằm tháng Bảy cũng là ngày xá tội vong nhân, nhà nhà bày mâm cao cỗ đầy để cúng chúng sinh.
Vu Lan, tên gọi tắt của Vu Lan bồn, được phiên âm từ tiếng Phạn là “Ulambana”, nghĩa là “Cứu đảo huyền”, tức cứu người bị tội treo ngược.
Lễ Vu Lan có duyên khởi từ Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ mình ra khỏi ngạ quỷ. Cho nên, hàng năm, ngày lễ Vu Lan nhắc nhớ con người ta tưởng nhớ công ơn cha mẹ, ở kiếp này và các kiếp trước.
Sau khi chứng quả A La Hán, Bồ tát Mục Kiền Liên thần thông quảng đại, muốn biết người mẹ đã khuất giờ ra sao nên đã dùng huệ nhãn đi tìm. Bằng khả năng của mình, ông đã biết mẹ mình vì còn sống gây nhiều nghiệp ác nên thác xuống rơi vào ngục A Tỳ làm quỷ, chịu sự đói rách hành hạ nên ông đã mang cơm xuống dâng mẹ.
Do đói lâu ngày không có cơm ăn, bà mẹ bèn bưng vội bát cơm, một tay che không cho các cô hồn khác đến tranh cướp. Lập tức, bát cơm trắng biến thành lửa đỏ khiến mẹ Mục Kiền Liên phải buông vội chiếc bát xuống.

Quá thương cảm với người mẹ của mình, Mục Kiền Liên vội tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ. Phật đáp, dù rằng công lực của ông có thần thông đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ mình. Chỉ có một cách là hợp lực chư tăng mười phương mới mong giải cứu mẹ ông thoát khỏi ngạ quỷ.
Đức Phật chỉ dạy rằng, rằm tháng bảy mời chư tăng cúng dường tam bảo thì sẽ được vô lượng công đức, cứu được cha mẹ bảy đời quá vãng.
Quả nhiên, làm theo Phật dạy, vong mẫu của Mục Kiền Liên đã thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sinh về cảnh giới lành.
Ở Ấn Độ từ xưa đã thực hiện lời dạy này mà thực hành pháp Vu Lan bồn. Ở Trung Quốc, từ năm 538, sau khi nhà vua Lương Võ Đế lần đầu tiên thiết cúng Vu Lan, ngày lễ này đã trở thành một phong tục để các bậc đế vương cũng như thần dân nhiều đời tổ chức báo đáp ân đức cha mẹ, tổ tiên. Ở Nhật Bản, tương truyền lễ cúng tế đầu tiên bắt đầu vào năm 657 thời Thiên hoàng Tề Minh và còn mãi đến ngày nay.
Ở Việt Nam không rõ tài liệu nào ghi chép việc cúng Vu Lan bồn xuất phát từ năm nào, chỉ biết rằng trong một số văn bản của Lê Quý Đôn đã xuất hiện ngày lễ này. Và thế là hằng năm, những người phụ nữ trong gia đình lại bận rộn với việc cúng rằm, nhớ ơn tổ tiên, lên chùa lễ Phật phù hộ cho gia đình được phước lộc, bình an. Rằm tháng bảy cũng là ngày xá tội vong nhân, bởi vậy nhiều gia đình đốt vàng mã cúng gia tiên theo tập tục.
Tuy nhiên, việc báo hiếu không nằm ở mâm cao cỗ đầy, ở những bộ quần áo giấy lộng lẫy sắc màu, đồ hitech sành điệu. Những việc này thiết nghĩ chỉ để thỏa mãn nhu cầu của người sống hơn là người đã khuất. Hãy hiểu rằng ông bà tổ tiên nhiều đời nay đều có mối dây liên hệ nghiệp với mình, do vậy hãy báo hiếu người đã khuất một cách thông minh.
Hãy suy nghĩ từ việc có nên đưa tay giết vài con kiến nhỏ, đến điều to lớn hơn như cưu mang, cứu sống nhiều mạng người.
Từ bát cơm Mục Kiền Liên đưa cho mẹ, mỗi người hãy tự biến bát cơm xưa thành nghiệp tốt và hạn chế biến chúng thành những nghiệp xấu, tốt hơn nữa là đưa họ về với Phật pháp.
Một trong những hành động hữu ích có thể làm hàng ngày, đặc biệt là ngày rằm, mồng 1 và những dịp lễ trọng đại như Phật Đản, rằm tháng bảy, mỗi người nên thực hiện phóng sinh nhằm cứu vớt sinh vật khỏi sự giam cầm hoặc cái chết và tích tập được công đức, tránh được bệnh tật và tăng tuổi thọ.
Như thường lệ, vào ngày rằm và mồng một, nhiều hội nhóm lại tổ chức lễ phóng sinh và quy y, cầu nguyện cho những con vật gặp nhiều duyên thuận đến với Phật pháp.

Chiều nay, 21/8, vào lúc 19 giờ 30, lễ phóng sinh tại Hà Nội được tổ chức tại Công viên Thủ Lệ, cổng đền Voi Phục cuối đường Kim Mã, Hà Nội. Cùng thời gian này, nhóm An Tựu Sài Gòn cũng bắt đầu lễ phóng sinh tại Quán Cafe B &A bên bờ sông Sài Gòn, đường 19, Trần Não, Quận 2, TP.HCM.
Tân Hoa

Cầu siêu có ảnh hưởng đến sự siêu độ của vong linh?

Phật giáo tin cầu siêu có ảnh hưởng đến sự siêu độ của vong linh. Thế nhưng, tác dụng ấy có giới hạn nhất định.
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống. Sau khi người chết rồi, chính người sống tổ chức lễ cầu siêu cho người chết và hồi hướng công đức tu thiện, làm thiện của mình cho người chết.
Kinh Địa Tạng cho biết, lợi ích của lễ cầu siêu có bảy phần, thì sáu phần thuộc về người còn sống (tức là người tổ chức lễ cầu siêu) còn chỉ có một phần lợi ích thuộc về người đã chết.
Đồng thời, Phật giáo chính tín, đối với phương thức lễ cầu siêu, có quan niệm hơi khác với tập tục dân gian. Nói siêu độ là nói độ thoát cõi khổ, siêu thăng đến cõi vui, là dựa vào cảm ứng của nghiệp lực tu thiện của bạn bè, gia thuộc người chết, chứ không phải do một mình tác dụng tụng kinh của tăng ni. Đó là sự cảm ứng do phối hợp nghiệp thiện của người tổ chức siêu độ và sự tu trì của người tụng kinh.
 Ảnh minh họa.
Do đó, Phật giáo chính tín cho rằng, chủ thể của công việc cầu siêu không phải là tăng ni mà là gia thuộc của người chết. Gia thuộc người chết, trong giờ phút lâm chung, nếu biết đem các đồ vật ưa thích của người sắp chết, cúng dường Tam Bảo, bố thí kẻ nghèo, và làm cho người sắp chết hiểu rõ, đó là làm công đức hộ cho anh ta, thì sẽ có tác dụng rất lớn đối với vong linh người chết. Đó là do sự cảm ứng của một niệm thiện nghiệp, do tâm người lúc lâm chung được an ủi, nhờ vậy mà nghiệp thức của người chết hướng tới cõi lành. Đó không phải là mê tín, đó là đạo lý tâm thiện hướng tới cõi thiện.
Nếu khi người thân đã chết mà con cháu, gia thuộc có lòng thành kính thiết tha, tổ chức trai tăng, bố thí, làm điều thiện lớn, tỏ lòng hiếu thảo khẩn thiết cũng có thể có cảm ứng, giúp cho vong linh được siêu linh cõi thiện. Thế nhưng, tác dụng không bằng việc làm khi người đang còn sống, chưa chết.
Khi người con có lòng hiếu chí thành, như Bồ Tát Địa Tạng, để cứu mẹ mà phát lời nguyện đại bi, nguyện vì để cứu mẹ mà đời đời kiếp kiếp sẽ cứu độ chúng sinh ra khỏi biển khổ. Dựa vào sức mạnh của lời nguyện vĩ đại ấy, mà cảm thông được với người chết, giúp người chết giảm bớt hay trừ bỏ được tội ác.
Đó không phải là mê tín, mà là sự cảm thông của lòng hiếu vĩ đại, của tâm nguyện vĩ đại, khiến cho tâm lực và nguyện lực của người siêu độ hòa nhập và cảm thông với nghiệp lực của người siêu độ, cả 2 thông suốt cùng một khí, nhờ vậy, mà người chết được siêu độ.
Vì vậy đối với Phật giáo chính tín, con cái gia thuộc nếu muốn cứu độ người chết, thì nên làm các việc như cúng dường Tam Bảo, bố thí kẻ nghèo, chứ không nhất thiết phải mời Tăng Ni đến tụng kinh. Tăng Ni khi được cúng dường, thì chỉ chú nguyện cho thí chủ mà thôi. Vì Tăng Ni tụng kinh là công việc làm hàng ngày của họ trong các khóa lễ, tụng kinh là một phương pháp tu hành, mục đích của tụng kinh không phải là để siêu độ người chết. Thí chủ cúng dường chư Tăng là để cho chư Tăng có thể tu hành và đạt mục đích của tu hành.
Phật giáo tuy có nói tụng kinh để siêu độ người chết, nhưng đó là hy vọng mọi người đều tụng kinh. Chỉ trong trường hợp mình không biết tụng kinh hay là tụng kinh quá ít, mới thỉnh Tăng Ni tụng kinh thay cho mình.
Thực ra, chức năng của Tăng Ni là duy trì đạo Phật ở thế gian, lấy Phật pháp để hóa độ chúng sinh, chứ không phải chuyên làm việc siêu độ cho người chết. Công đức của tụng kinh là nhờ ở lòng tin Phật pháp và tu hành Phật pháp, cho nên không phải chỉ có Tăng Ni mới tụng kinh, lại càng không phải chỉ khi có người chết mới tụng kinh.
Hơn nữa, thời hạn siêu độ tốt nhất là trong vòng 49 ngày. Bởi vì, Phật giáo tin rằng, chỉ trừ những trường hợp như người có phúc nghiệp lớn, chết thì tái sinh ngay ở sáu cõi trời Dục giới, hay là những người tu định có kết quả, khi chết thì tái sinh ở các cõi trời Thiền định, hay là người có ác nghiệp nặng, chết thì đọa địa ngục lập tức; còn thì đối với người bình thường mà nói, chết xong còn trải qua thời gian 49 ngày chờ đợi cho nghiệp duyên chín mùi mới quyết định tái sinh ở cõi nào.
Nếu trong thời gian này mà con cái, thân nhân biết lấy công đức cúng dường Tam Bảo, bố thí kẻ nghèo để hồi hướng cầu siêu độ thì người chết, nhờ công đức thiện nghiệp ấy cảm ứng hỗ trợ mà được sinh lên cõi thiện (Trời, Người) và được siêu độ. Nếu để qua 49 ngày mới tổ chức cầu siêu thì chỉ có thể tăng thêm phúc đức cho người đó, chứ không thể ảnh hưởng gì đến hướng tái sinh của họ nữa.
Tuy nhiên, cũng có ngoại lệ, trong trường hợp người thân bị chết oan, chết thê thảm, do oan trái chưa trả cho nên có thể sinh ở cõi quỷ, và tiếp tục vòi vĩnh, đòi hỏi đối với người. Thông thường, người ta gọi đó là quỷ ám. Trong trường hợp đặc biệt này, thì cần có tụng kinh siêu độ (nghĩa là thuyết pháp cho quỷ nghe để cho quỷ rõ hướng đi). Nhờ Phật lực giúp cho vong linh tái sinh ở cõi thiện.
Phật giáo thường gọi cõi quỷ là "ngã quỷ" (quỷ đói), cho nên thường dùng mật pháp (như trì chú biến thực, thí thực) để giúp đỡ, tạo ra tác dụng lớn, đặc biệt là đối với loại quỷ lành. Công việc Phật sự đặc biệt này, các tôn giáo khác, kể cả Thần giáo đều không biết.
HT. Thích Thánh Nghiêm

Thuyết luân hồi

Đức Phật thấy được những nẻo đường của chúng sanh đến và đi nên Ngài mới nói “Thuyết luân hồi”.
Tất cả chúng ta hiện giờ có mặt ở đây không phải chỉ một lần, mà là vô số lần rồi. Con người bỏ thân này chưa phải là hết, mà còn lang thang không biết đến bao giờ. Vì vậy nhà Phật thường dùng từ “lang thang trong kiếp luân hồi”, cứ đi mãi không biết dừng nơi đâu? Đức Phật thấy được những nẻo đường của chúng sanh đến và đi nên Ngài mới nói “Thuyết luân hồi”.
Thuyết luân hồi nói lên lẽ thực của kiếp người, Đức Phật nhớ rất rõ,
thấy rất thật mà nói lại cho chúng ta chứ không phải Ngài tưởng tượng ra - Ảnh minh họa. 
Luân hồi là gì? Luân là bánh xe, hồi là lăn tròn. Luân hồi đi đâu? Không ngoài ba đường ác và ba đường lành, cứ lên xuống quay tròn như vậy hoài, gọi là luân hồi. Nếu người làm điều tốt khi chết sẽ đi các đường trên. Hưởng hết phước rồi thì tuột xuống trở lại, còn kẻ làm xấu thì đọa vào các đường dưới, đền trả hết nghiệp mới được trồi lên. Lên xuống, lên xuống không ra khỏi vòng lục đạo nên gọi là bánh xe luân hồi. Đó là nói luân hồi trong các đường.
Khi chúng ta đã biết thuyết luân hồi trong ba đường lành, ba đường dữ rồi, bây giờ phải làm sao? Phải chọn ba đường lành mà đi, tối thiểu cũng phải đi lại đường cũ của mình, là làm người. Ai khá hơn thì vươn lên trên cõi trời. Muốn trở lại cõi người, Phật dạy phải thọ Tam quy, giữ năm giới. Năm điều kiện đó là Nhân thừa Phật giáo, tức tu để được làm người. Đó là điều căn bản mà chúng ta phải nhớ.
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội. Nếu làm trọn mười điều ác thì đi thẳng xuống địa ngục, không nghi ngờ. Khá khá hơn không tới mười điều, nhưng nặng về tham thì sanh vào loài quỷ đói. Ngạ quỷ sống lang thang trong cõi thế gian, tuổi thọ rất lâu phải chịu đói khát ghê lắm, nên kiếp ngạ quỷ cũng hết sức khổ. Kế đến súc sanh, trong mười điều ác làm chừng năm điều là đủ làm súc sanh rồi. Súc sanh nặng về si nên không biết phân biệt gì hết, không có tư cách như con người.
Ai bắt mình đi trong sáu đường? Nghiệp bắt. Nghiệp do ai tạo? Không ai có quyền áp đặt ta, tự ta quyết định, tự ta chọn lựa mà thôi. Không phải ta có tội Phật đày xuống dưới địa ngục hay có phước Phật đưa lên cõi trời. Như hiện giờ chúng ta có mặt trên thế gian này, có người khá giả có kẻ nghèo nàn, cơ cực là do ai? Đổ thừa trời khiến được không. Sự thực tại người không có phước nên tính đâu trật đấy, làm gì cũng thất bại nên nghèo. Còn người có phước tính đâu trúng đó nên giàu. Đó là do phước nghiệp riêng của mỗi người tạo ra, chớ không phải ai đem đến cho mình.
Đời hiện tại của chúng ta có hai điều quan trọng. Thứ nhất là trả nợ hoặc hưởng phước của quá khứ. Nhiều người sanh ra là con ông lớn hoặc nhà giàu, đó là hưởng phước. Nhiều người sanh đã mồ côi hoặc cha mẹ nghèo khổ bần cùng, hung dữ, độc ác… đó là trả nợ. Thứ hai là chuẩn bị cho đời sau. Thành ra ta có chuyển nghiệp là chuyển ngay đời hiện tại, cho nên đời hiện tại rất quan trọng. Nếu cuộc sống này mình được nhiều thuận lợi thì nên chuẩn bị cho mai kia, đừng để tuột xuống. Nếu cuộc sống này bất như ý mình cũng cười, vì biết tại hồi xưa mình ngu nên bây giờ phải chịu thôi. Bây giờ đền lại cái ngu hồi xưa nên cam chịu không giận ai, không kêu trời trách đất. Cố gắng làm sao tạo duyên tốt để hiện đời an vui phần nào và mai sau được tốt đẹp hơn.
Người hiểu được thuyết luân hồi của Phật dạy thì cuộc sống nội tâm vững vàng, nghèo không trách, giàu không tự cao. Bởi biết bây giờ ta hưởng mà không làm tốt nữa thì mai kia tuột xuống sẽ khổ. Hoặc hiện giờ mình bị những đày đọa thì vui vẻ chấp nhận, sửa lại đừng để tuột xuống nữa mà phải nâng lên. Như vậy là tu. Biết rõ lý luân hồi tự nhiên ta tạo cho mình con đường đi lên, không có tâm oán hờn thù ghét ai hết.
Thế gian thường có bệnh, mình nghèo mà ai giàu thì thấy ghét người ta. Mình học dở thấy người học giỏi thì ganh tỵ. Đó là tật xấu, tự mình chuốc nghiệp mà thôi. Trong kinh Phật nói, từ khi phát tâm tu cho tới thành Phật, trải qua ba vô số kiếp làm tất cả các việc công đức mới thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Như vậy sự tích lũy rõ ràng không mất, tích lũy tốt thì quả nối tiếp tốt, tích lũy xấu thì quả nối tiếp xấu.
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ. Hoặc cha mẹ không có tài nên mình bây giờ phải thua sút người ta. Mà không biết chính mình thọ nhận quả báo đời trước đã tạo nên mới sanh vào gia đình tương ưng như thế. Cha mẹ chỉ là phần phụ thôi, gốc là bản thân mình. Như vậy thuyết luân hồi nói lên lẽ thực của kiếp người. Đức Phật đã thấy, đã nhớ rõ ràng nên nói ra cho chúng ta biết, chớ không phải do Ngài tự tưởng tượng. Ngày nay mình nghe hơi khó tin. Bởi vì chúng ta nhìn nông cạn quá nên không tin được.
Khi biết rõ kiếp luân hồi như vậy, ai can đảm tạo thêm những nghiệp ác để chịu khổ hơn? Cho nên chúng ta phải tinh tấn làm những điều lành. Nếu không làm cho ai, ít ra ta cũng giữ được phần mình, đừng phạm những giới đưa ta đi xuống. Đó là tu. Đức Phật thấy rõ sự nguy hiểm của luật nhân quả luân hồi nên chỉ cho mình đường lối tu, chớ không phải áp đặt mình làm gì. Khi quy y thọ năm giới, quý thầy hỏi Phật tử “giữ được không?”, quý vị giữ được thì nói “dạ được”, còn nếu giữ chưa được thì làm thinh, chớ Phật đâu có ép. Vì giữ giới là giữ cho mình, không phải giữ cho Phật.
Đi sâu vào tâm lý mỗi người, chúng ta sẽ thấy mình đã từng quen thuộc, ưa thích với những việc làm của thuở quá khứ. Ví dụ như bản thân tôi, tại sao lại thích tu? Người đời lớn lên lo chuyện làm ăn hoặc gì gì đó, tại sao mình không thích những chuyện ấy mà lại thích đi tu? Như vậy là từ đời quá khứ ta đã tích lũy hạt giống đó rồi, nên bây giờ có mặt đây luôn nhớ việc ấy. Rõ ràng chúng ta không quên hết nhân quá khứ, nhân nào chứa sâu đậm sẽ trở thành sở thích, việc làm của mình trong đời này.
 
Có người ra đời thích làm lành, có người ra đời lại hung dữ. Mỗi người thích mỗi cách, đó là do sự tích lũy của quá khứ khác nhau. Quý Phật tử kiểm lại xem, nếu do gien cha mẹ sanh ra là yếu tố duy nhất tạo thành những đứa con sau này, thì cha mẹ bệnh tật gì con cũng phải bệnh tật y hệt như thế. Rồi tâm hồn của con do cái gì tạo?
Có nhiều cha mẹ rất hiền nhưng con không hiền. Hoặc ngược lại cha mẹ dữ mà con lại hiền. Những sự khác biệt đó, nhà Phật gọi là nghiệp tích lũy của quá khứ, chúng ta mang theo khi thọ sanh. Những gì mình đã chứa chấp đời trước, bây giờ nó hiện ra rõ ràng. Như hai anh em ruột, thể xác giống chút chút mà tâm hồn không giống nhau. Như vậy mới thấy mỗi người sanh ra mang một nghiệp khác nhau, từ đó có những sai biệt khác nhau.
Thế thì muốn trên đường luân hồi mình đi đường tốt, không đi đường xấu phải làm sao? Thấy người đáng ghét ta nên xử sự thế nào? Nên nghĩ rằng họ có làm gì hại mình mà ghét. Ghét người như vậy là ta đã có ý nghĩ xấu rồi. Nếu tiếp tục nuôi dưỡng ý nghĩ này, sanh chuyện nói này nói kia với người ta là cái cớ để tạo thêm nghiệp. Nếu mọi người đều biết tu như vậy thì gia đình, xã hội đẹp biết bao nhiêu.
Muốn biết có luân hồi hay không, chúng ta cứ nghiệm trong tâm niệm của mình sẽ rõ. Cha mẹ sanh thân được mà không thể sanh tâm niệm của mình. Có tâm niệm rất lành, có tâm niệm rất dữ. Như vậy tâm niệm đó từ đâu ra? Chính do sự tích lũy của đời trước, không nghi ngờ gì hết. Tích lũy tức là những gì đời trước mình đã từng làm từng huân tập. Đời này trở lại những thứ tích lũy đó không mất. Trong kiếp luân hồi chúng ta theo nghiệp mình đã tích lũy, chất chứa mà hiện ra thành tâm hồn cá biệt của mỗi người.
Nên nói đến luân hồi chúng ta đừng thèm suy ngẫm gì hết, cứ nhìn lại nội tâm mình thì biết ngay. Tại sao người đó chưa quen thuộc gì hết mà mình thấy dễ thương, hoặc kẻ kia cũng chẳng quen thuộc gì hết mà mình thấy phát ghét. Đâu có trả lời được. Tại vì chúng ta không nhớ nổi, nên nói không biết tại sao kỳ vậy. Thật ra do nghiệp tích lũy của quá khứ chiêu cảm nên.
Trên đời này ai không có những người thân, những kẻ thù. Có thân, có thù gặp lại nhau là khổ. Người thân thì mình thương, người thù thì mình ghét. Nhiều người nói tại sao anh chị có duyên quá, xin cái gì cũng được. Còn tôi vô duyên xin cái gì cũng không ai cho. Chẳng qua hồi trước mình hất hủi thiên hạ quá, bây giờ tới phiên người ta hất hủi lại mình. Bình đẳng thôi.
Như vậy mình tạo nghiệp lành, nghiệp dữ không đợi đời sau mới trả quả mà ngay hiện tại cũng ứng hiện quả báo phần nào. Người Phật tử cần phải nắm vững thuyết luân hồi để chọn con đường lành mà đi, không khéo rơi vào các đường dữ, chịu khổ nhiều kiếp, không biết bao giờ mới ra khỏi. Lẽ thực này, chúng ta không thể không biết.

Tu tại gia

Sau khi quy y Tam bảo và phát nguyện thọ trì năm giới là đã bắt đầu lộ trình tu tập tại gia.
HỎI: Tôi yêu thích Phật pháp, muốn tu học và được biết có nhiều người Phật tử tu tại gia. Vậy xin hỏi tu tại gia thì như thế nào? Hiện mỗi ngày tôi không đọc kinh nhưng đều có niệm Phật, mỗi tháng chỉ mới ăn chay được ba ngày và mấy ngày lễ Phật, vậy có được coi là tu không? Trong quá khứ tôi có mắc phải nhiều sai lầm. Bây giờ tôi muốn quay đầu hướng thiện thì phải làm như thế nào? Có quá muộn không?
(JENNY NGUYỄN, xuxudontcry300495@gmail.com)
ĐÁP:
Bạn Jenny Nguyễn thân mến!
Tu có nghĩa là sửa, tại gia có nghĩa là ở nhà. Tu tại gia là tu sửa bản thân ngay tại nhà của mình. Người cư sĩ Phật tử sống đời thế tục với các trách nhiệm gia đình và xã hội nhưng nguyện sửa đổi, chuyển hóa tâm tánh, ngôn ngữ, hành vi của mình theo lời Phật dạy chính là tu tại gia.
 Tịnh Danh cư sĩ.
Nói chung, người Phật tử sau khi quy y Tam bảo và phát nguyện thọ trì năm giới là đã bắt đầu lộ trình tu tập tại gia. Thời khắc quy y đánh dấu sự thay đổi rất rõ ràng trong nhận thức và hành động, mọi việc của người Phật tử lúc này đều nương tựa vào Tam bảo, theo sự soi sáng của Phật-Pháp-Tăng. Sau đó, người Phật tử trau dồi nhân cách đạo đức bằng việc giữ năm giới, phát tâm ăn chay (một tháng ít nhất là hai ngày), làm các việc thiện trong khả năng có thể để vun bồi phước đức. Quan trọng hơn là tìm học giáo lý, tin hiểu đúng lời Phật dạy rồi ứng dụng trong đời sống thực tiễn hàng ngày. Sống đạo đức (có giới), tâm luôn an tịnh thảnh thơi (có định), sáng suốt không mê lầm (có tuệ) là những phẩm hạnh căn bản mà người tu tại gia luôn hướng đến và thành tựu.
Ngoài ra, cụm từ tu tại gia còn để chỉ cho một số ít cư sĩ phát tâm tu tập tinh chuyên hơn các Phật tử bình thường. Dù vẫn ở nhà, nhưng những cư sĩ này thường phát tâm ăn chay trường, khá nhiều vị thọ giới Bồ-tát, công phu tu niệm và lễ bái với thời khóa y như người xuất gia vậy.
Mỗi ngày bạn đã biết niệm Phật, mỗi tháng có mấy ngày ăn chay và lễ Phật, như vậy có thể gọi là tu rồi. Vì như đã nói, tu chính là sửa. Sửa được càng nhiều những hạn chế của bản thân thì sự tu của mình càng cao và phước đức nhờ đó cũng tăng tiến hơn lên.
Ai trong quá khứ cũng đều có sai lầm. Muốn hướng thiện, trước hết phải nhận ra đó là lầm lỗi rồi thành tâm sám hối, ăn năn về việc đã qua, nguyện không tái phạm nữa. Tiếp đến là nương theo Phật pháp để sống thiện lành. Nguyện nương tựa Tam bảo, sống và tu học đúng với phẩm hạnh của người cư sĩ Phật tử thuần thành chính là sự quay đầu hướng thiện đúng đắn nhất.
Quay đầu là bờ! Biết quay đầu hướng thiện vào bất cứ thời khắc nào trong đời cũng là sớm, không hề muộn. Bởi đời sống luôn được tiếp nối, cuộc đời chúng ta chỉ là một mắt xích trong chuỗi tiếp nối ấy mà thôi. Do vậy, không hề có chuyện “quá muộn” trong việc tỉnh thức để quay đầu hướng thiện.
Chúc bạn tinh tấn!

Mỗi năm có bao nhiêu ngày Vu lan?

Báo hiếu không chỉ khi cha mẹ đã khuất bóng, Vu lan không chỉ một lần trong năm mà phải là Vu lan trong Tâm, trải dài cho từng khoảnh khắc.
Ca dao có câu:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Câu ca dao trên đủ nói lên công ơn cha mẹ to lớn biết nhường nào.
Cũng nhân mùa Vu lan, những người con Phật hãy làm tròn bổn phận của mình đối với cha mẹ còn hiện tiền cũng như đã quá vãng. Đối với mỗi hoàn cảnh, đức Phật có những bài dạy khác nhau, mà ai cũng có thể thực hiện được!
Với cha me còn hiện tiền, đức Phật đã dạy bổn phận làm con đối với cha mẹ phải đủ năm điều, đó là:
1. Hết lòng hiếu kính, chăm lo việc ngủ nghỉ của cha mẹ tùy theo thời tiết.
2. Chăm lo miếng cơm thức uống cho cha mẹ vừa lòng.
3. Gánh vác công việc nặng nhọc để cha mẹ được thư thái, vui vẻ tuổi già.
4. Luôn luôn nhớ nghĩ đến công ơn sinh thành dưỡng dục để lo báo đáp kịp thời lúc cha mẹ còn sinh tiền.
5. Hết lòng thuốc thang chăm sóc khi cha mẹ đau ốm không nề khó nhọc, không sợ hao tốn.
 
Bổn phận của cha mẹ với con cái gồm năm điều mà nếu hoàn thành được các nhiệm vụ này không chỉ giúp cha mẹ thiết lập được mối liên hệ bền vững với con cái mà còn khiến họ cảm thấy rất tự hào về bản thân:
1. Giúp con cái kiềm chế, tránh xa những hành động bất thiện.
2. Dạy con hành động thiện.
3. Giáo dục hướng nghiệp cho con cái.
4. Giúp con cái chọn bạn đời.
5. Trao của thờ tự cho con đúng thời điểm.
Đối với những bổn phận trên đây, điều cốt yếu đó là thực hành, vận dụng một cách linh hoạt vào đời sống hàng ngày. Và phải luôn luôn cố gắng trau dồi đức hạnh, tu tâm sửa tính, để cho thân tâm được an lạc, hầu được hưởng hạnh phúc trong đời hiện tại, gia đình hạnh phúc, xã hội bền vững.
Do vậy, với mỗi người con hiếu thảo pháp Vu lan không chỉ là ngày Rằm tháng Bảy. Mà Vu lan trong mỗi hành động, mỗi lời nói hàng ngày, mới là cách báo hiếu đích thực.
Báo hiếu không chỉ khi cha mẹ đã khuất bóng và Vu lan cũng không chỉ một lần trong năm mà phải la Vu lan trong Tâm, trải dài cho từng khoảnh khắc thời gian.
Hãy thấy vui sướng khi cha mẹ còn ở bên mình và tận lực phụng dưỡng cha mẹ, hãy làm trọn những bổn phận trên, đó chính là cách báo hiếu thiết thực nhất!
 

Hiểu đúng lễ xá tội vong nhân và Vu lan báo hiếu

Hai lễ này là khác nhau, tuy nhiên trong một số trường hợp lại được hiểu và hành làm một.
Nhiều người Việt Nam đã biết về lễ Xá tội vong nhân, bởi vì nó là truyền thống của dân tộc, gắn với tục cúng cháo, nẻ, hoa quả…và đặc biệt đối với trẻ con trước đây ở các vùng quê là được cướp cháo xí. Lễ xá tội vong nhân đã ăn sâu vào truyền thống văn hóa dân tộc Việt, thậm chí lễ này còn là lễ quan trọng nhất, bởi: "Cúng cả năm không bằng rằm tháng bảy”.
 Cần khắc phục những cách hiểu mang tính mê tín, cách hành tốn kém và lãng phí trong Lễ xá tội vong nhân và Vu lan báo hiếu. Ảnh minh họa.
Theo cách hiểu của văn hóa tín ngưỡng, lễ xá tội vong nhân là để cầu cúng cho các cô hồn (những vong linh không/chưa được thờ cúng ở một gia tiên nào). Văn cúng của lễ này thường dùng bài "Văn tế thập loại chúng sinh” của Nguyễn Du, bản văn này còn có tên là "Chiêu hồn thập loại chúng sinh”, nội dung của bản văn đã thể hiện sự kết hợp giữa giá trị nhân văn cao cả của người Việt với văn hóa Phật giáo. Điều này được thể hiện rõ nhất ở các câu, từ câu 157 đến hết bài (câu 184): "Kiếp phù sinh như hình như ảnh/Có chữ rằng "vạn cảnh giai không”/Ai ai lấy Phật làm lòng/Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi”.
Người Việt trong truyền thống cho rằng ngày 15/7 âm lịch là ngày "mở cửa ngục” để các cô hồn nhận đồ cúng tế cũng như quần áo, và một ít tiền vàng, mã, do vậy ngày này là ngày xá tội vong nhân. Khi thực hiện lễ này người Việt cũng nhân đó mà làm lễ cầu siêu cho gia tiên tiền tổ và gửi biếu chút vàng mã cho các chân linh gia tiên nhằm thể hiện sự hiếu thảo của con cháu đối với các bậc sinh thành.
Lễ Vu lan báo hiếu cũng là một lễ của Phật giáo. Trong Phật giáo lễ này có vai trò hết sức quan trọng bởi lẽ nó thể hiện một trong "Tứ đại trọng ân” của nhà Phật: 1. Ân Cha Mẹ; 2. Ân Tam Bảo Sư trưởng; 3. Ân quốc gia xã hội; 4. Ân chúng sinh vạn loại.
Ân Cha Mẹ là ân đầu tiên trong tứ ân, Cha Mẹ ở đây không phải chỉ là người sinh thành ra mình mà có thể hiểu là chúng sinh. Bởi khi còn tại thế, một lần trên đường đi thuyết pháp Đức Thích Ca Mâu Ni gặp một đống xương khô, Người đã quỳ xuống bái, và Người đã giải thích cho các đệ từ rằng biết đâu người này kiếp trước là cha mẹ ta.
Về lịch sử lễ Vu lan báo hiếu gắn liền với câu chuyện về ngài Mục Kiền Liên cùng tăng đoàn cứu mẹ ông nơi hỏa ngục. Việc cứu mẹ là dựa trên nguyện lực của Mục Kiền Liên và các vị cao tăng, dựa trên quan niệm về sự cứu vớt của Phật giáo chứ không phải là "phá ngục cướp tù” như một vài người từng chê trách.
Câu chuyện về Mục Kiền Liên và ân Cha Mẹ trong "Tứ đại trọng ân” đã làm nên mùa Vu lan báo hiếu của Phật giáo với ý nghĩa tâm linh, ý nghĩa đạo đức, ý nghĩa xã hội sâu sắc và có tính phổ quát. Bởi đạo đức xã hội, văn hóa, tín ngưỡng hay tôn giáo cũng đều thừa nhận và coi trọng công ơn của các thế hệ trước, của các bậc sinh thành.
Trong những năm gần đây việc cúng xá tội vong nhân cũng như lễ Vu lan báo hiếu diễn ra sôi nổi ở nhiều nơi với quy mô, nghi lễ khá lớn. Hai lễ này là khác nhau, tuy nhiên trong một số trường hợp lại được hiểu và hành làm một. Điều đáng quan tâm là lễ xá tội vong nhân với những nghi thức phức tạp, với những lễ vật - nhất là vàng mã tốn kém đã làm giảm đi những giá trị văn hóa đích thực của lễ xá tội vong nhân cũng như lễ Vu lan báo hiếu.
Với sự hội nhập vốn có của Phật giáo, với tín ngưỡng văn hóa dân tộc, nên chăng Phật giáo cần lên tiếng để mọi người hiểu đúng giá trị của lễ hội này đồng thời có sự hướng dẫn cho tăng ni, phật tử trong việc hiểu và hành để lễ này thể hiện tốt hơn nữa giá trị của nó. Đồng thời hạn chế, khắc phục những cách hiểu mang tính mê tín, cách hành tốn kém và lãng phí. Làm được điều này chính là lấy chánh tín của đạo Phật mà dung hợp với giá trị nhân văn của lễ xá tội vong nhân để Phật giáo có đóng góp tích cực, thiết thực vào đời sống văn hóa tâm linh của người Việt trong cuộc sống hiện đại.

Khi đã mất tất cả, ta vẫn còn tương lai

Khi đã mất tất cả thì vẫn còn một thứ: đó là tương lai. Hãy cố gắng để có tương lai tốt đẹp – đó là sống hướng về phía trước.
Trong bất cứ tình huống nào, người cho bao giờ cũng hạnh phúc hơn người nhận, vì thế dâng hiến được gì thì cứ dâng hiến.
 
Kiếm được đồng tiền từ thiên hạ thì không phải là chuyện đơn giản. Khuyết điểm thì ai cũng có, điều quan trọng là ta khắc phục nó thế nào.
Hãy biết chịu trách nhiệm cho mọi hành động của mình. Tất cả những gì ta nhận được của ngày hôm nay đều do những gì ta đã làm từ quá khứ. Khi đã mất tất cả thì vẫn còn một thứ: đó là TƯƠNG LAI. Hãy nhẹ lòng quên đi những gì làm ta đau khổ trong quá khứ để hướng về phía trước.
Theo Phật giáo Việt Nam

Mẹ tôi & câu niệm “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát”

Mẹ tôi cầu Bồ tát không vì mình (vô ngã) mà chỉ vì mọi người, con cháu, người thân...
Mẹ tôi tin “chắc như đinh đóng cột” vào sự linh ứng của Bồ-tát Quán Thế Âm. Mẹ nhất quyết: bất cứ ai, hễ gặp bất trắc, tai nạn khổ đau mà thành tâm niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì Ngài sẽ cứu độ cho tai qua nạn khỏi; nếu không được ngay thì sớm muộn mọi sự cũng hanh thông tốt đẹp! Mẹ tôi nhắc nhở con cháu và mọi người quen lạ nên thành tâm cầu nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm! Và câu niệm “Nam-mô Đại từ Đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ-tát” đã nhập tâm và theo mẹ tôi suốt cho đến cuối đời.
 Ảnh minh họa.
Linh ứng chăng? Thật ra, hồi đó tôi không mấy quan tâm, và cũng như mọi người trong nhà, tôi cho là mẹ “mê tín”. Lên trung học, được tiếp cận mớ kiến thức nhà trường với sách báo, phim truyện…, tôi lại càng nghi ngờ điều mẹ tin, cho là thiếu cơ sở khoa học. Trong những năm đầu thập niên 50-60, trào lưu triết học phương Tây thịnh hành; triết lý hiện sinh như là mốt được giới trẻ học sinh, sinh viên hâm mộ tôn sùng. Mặc dầu hiện sinh là gì, phần đông chúng tôi cũng còn lờ mờ nhưng đã ảnh hưởng và để lại dấu ấn sâu đậm trong nhận thức, suy tư, nếp sống thanh niên thời bấy giờ, nhất là giới trẻ có học. Tôi, một đứa nhà quê về phố học, cũng như phần đông thanh niên thời đó, muốn giũ bỏ cái lốt quê mùa bằng cách tập tò học đòi “mốt trí thức” với cặp kính trắng và những quyển sách triết của Albert Camus, J. Paul Satre luôn lè kè bên mình. Hiện sinh, vấn đề thời thượng mà ở bất cứ đâu - vỉa hè, sân trường, nhà ga, bến xe, quán cà-phê... cũng đem ra bàn cãi, tranh luận; và với thái độ hoài nghi, họ thẳng thừng bác bỏ những gì mắt không thấy, tai không nghe. Bản thân tôi cũng không ngần ngại gạt qua một bên điều mẹ tin, coi thường lời mẹ dặn, tự cho là “mọi sự được mất, thành bại ở đời đều do số phận cả. Linh ứng chỉ là sự ngẫu nhiên, trùng hợp, tình cờ”.
Bước vào đời trước bao nghịch cảnh phũ phàng và thất bại đắng cay, tôi hoang mang không còn biết tin vào đâu. Nhiều người cho hoàn cảnh sướng khổ đều do số phận cả. Nhưng số phận do đâu? Tôi băn khoăn tự hỏi! Tại sao người xinh đẹp, giàu có, hạnh phúc; kẻ lại xấu xí, bất hạnh, khổ đau? Người cho là do trời hay thượng đế quyền năng an bài. Như thế tại sao đều là con người và là con cái thượng đế mà kẻ của cải thừa mứa, người lầm than đầu tắt mặt tối? Như thế có bất công? Có quan niệm cho là nghiệp… thì chuyển được chăng, ai cứu? Có thể nào đặt cược đời mình vào niềm tin mơ hồ và tôi nghi ngờ điều xác tín về sự mầu nhiệm. Trong khi không ít trường hợp tôi đã mở to mắt kinh ngạc trước những kỳ diệu mà mớ kiến thức khoa học của tôi chịu bó tay không tài nào lý giải! Thật ra, những lúc cùng đường bế tắc, tôi cũng cầu nguyện (tất nhiên thầm kín không ai hay) nhưng có bao giờ tôi được đáp ứng. Tuy thế, khi liên hệ hoàn cảnh gia đình mình với bạn bè đồng song đồng lứa, tôi không khỏi giựt mình tự hỏi sự may mắn do đâu có? Sinh ra và lớn lên trong gia đình đông con ở một vùng quê nghèo, anh em tôi đều được học hành, tuy không đến nơi đến chốn nhưng có được chút hiểu biết giắt lưng đối với thời bấy giờ không là chuyện dễ. Nhất là khi phải đối diện trước tình huống sống chết chỉ trong gang tấc, mạng sống như chỉ mành treo chuông…, trong sâu thẳm lòng tôi bỗng vuột ra lời cầu nguyện chí thành và tôi đã vượt qua hiểm nguy. Sức mạnh kỳ diệu nào đã thúc đẩy thực sự tôi không thấy, không hay biết nhưng là sự thật không thể chối cãi! Và trải bao biến cố chiến tranh tù tội chết chóc xảy đến, bạn bè đứa chết hay mất người thân, đứa nhà cửa tan nát phải tha phương cầu thực, gia đình tôi vượt qua và anh em tôi may mắn sống sót và được an lành. Điều đó đã đặt ra cho tôi câu hỏi về trải nghiệm tâm linh của mẹ. Vì không nhờ “phước phần” từ niềm tin tâm linh mẹ tưới tẩm làm sao anh em tôi có nơi nương tựa để đứng vững? Và trong cuộc sống đầy bất trắc, bao sự việc đến với tôi hay trực tiếp chứng kiến đã đánh thức tôi quay về giọt nước cam-lồ-cứu-khổ-Quán-Thế-Âm mà mẹ hằng tin sâu và ân cần trao lại con cháu mà có lúc chúng tôi vô tình cho là mẹ mê tín.
Những năm 80 của thế kỷ trước, đời sống khó khăn, không những tiền bạc thiếu thốn mà thì giờ cũng eo hẹp, việc đi lại không dễ dàng nên có thương cha mẹ, nhớ anh em bạn bè cũng chịu. Suốt năm qua tôi không về thăm nhà nên khi được tin mẹ mất, tôi bối rối không biết phải làm sao. Tình hình xe tàu khó khăn, tiền bạc thiếu hụt lấy gì xoay xở! Đang loay hoay tìm cách tháo gỡ, bỗng lời mẹ năm xưa thôi thúc. Tôi thắp nén hương đứng giữa trời đất thành tâm khấn cầu Bồ-tát Quán Thế Âm gia hộ cho tôi được về kịp để lo đám tang mẹ! Và tôi giữ mãi câu niệm suốt đêm. Bốn giờ sáng, tôi đã có mặt ở bến xe xếp hàng mua vé. Nhưng đến bảy giờ có thông báo “Vé đã bán hết từ chiều hôm qua!”. Mọi người đều tỏ ra bức xúc, tức giận… nhưng cuối cùng đều tản mác! Tôi đánh bạo vào ngay phòng vé năn nỉ, nhưng vô ích. Quay ra, tôi thở dài ngồi xuống bậc cấp chờ một cơ may. Một chuyến xe tăng cường, biết đâu? Bỗng một người đàn ông trông quen quen đến bên tôi cười bảo: “Anh có vẻ bồn chồn, hẳn có việc cần, tôi thì chưa vội!”. Đặt tấm vé vào tay tôi rồi ông vội bỏ đi ngay. Tôi trố mắt ngạc nhiên! Là sự thật? Nhưng tấm vé đã sờ sờ trên tay. Tôi mừng quá, vội nhảy lên xe. Ngồi xuống ghế, tôi mới sực nhớ mình chưa trả lại tiền vé và cũng không một lời cảm ơn. Tôi đứng lên định bước xuống nhưng xe đã chuyển bánh và nhìn quanh chẳng thấy bóng dáng người đó đâu! Tôi moi óc, cố lục lọi trí nhớ xem là ai? Sao có chuyện kỳ lạ vậy? Về đến nhà, chị tôi cho biết, nhờ sự quan tâm giúp đỡ của quý thầy và quý bác trong khuôn hội nên mọi việc đã đâu vào đấy. Câu hỏi về người đàn ông cứ theo tôi mãi, cho đến khi mọi việc xong xuôi, tôi đến chùa thăm thầy và được thầy khai mở.
Tôi thay mặt gia đình đến chùa lễ Phật, cảm tạ ơn thầy. Thầy ân cần bảo: “Chỉ là Phật sự, gia đình không nên quá bận tâm chuyện ơn nghĩa. Phật dạy cách tốt nhất đền đáp ơn Tam bảo là giúp đỡ mọi người!”. Thấy thầy tỏ vẻ cởi mở, tôi mạnh dạn nêu câu hỏi thắc mắc bấy lâu. “Thưa thầy, nhiều người cho rằng hễ ai gặp bất trắc khó khăn hoạn nạn, cầu Bồ-tát liền được cứu độ, nhưng có người cầu mà chẳng bao giờ được đáp ứng, như thế nghĩa là sao?”. Thầy rót nước mời uống rồi ân cần giải thích. Đạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ. Cuộc đời, nói chung chúng sanh trong cõi Ta-bà nhiều khổ đau gặp hoàn cảnh tai ương hoạn nạn do căn cơ sai biệt nên để cứu độ hết thảy, chư Phật và chư Bồ-tát đã thị hiện nhiều thân tướng khác nhau. Đặc biệt Bồ-tát Quán Thế Âm thị hiện tướng Thiên thủ thiên nhãn; năng lực vô biên mầu nhiệm được khái quát, cụ thể hóa bằng ngàn tay ngàn mắt. Ngàn tay nói lên khả năng sẵn sàng cứu độ hết thảy, ngàn mắt biểu lộ năng lực nhìn xa trông rộng, khắp nơi không đâu không thấy! Do đó bất cứ ở đâu và lúc nào Bồ-tát cũng có mặt, sẵn sàng đáp lại tiếng kêu cứu thống khổ những ai gặp ách nạn! Trong kinh Pháp hoa, phẩm Phổ môn, Phật dạy Bồ-tát Quán Thế Âm tùy yêu cầu cứu độ mà thị hiện nhiều hình tướng khác nhau. Chúng sanh bao nhiêu loài với nỗi khổ, niềm đau thì Ngài thị hiện bấy nhiêu thân tướng tương ưng để cứu độ hết thảy. Nhưng nói thế không phải thế mà là thế; nghĩa là không phải ai cầu cũng được đáp ứng. Trí tuệ đạo Phật đòi hỏi hiểu lời Phật dạy như là phương tiện khế lý, khế cơ… tùy căn cơ chủng tánh mà tiếp nhận ý nghĩa cao thấp sâu cạn không đồng. Ý nghĩa Quán Thế Âm phải được hiểu qua biểu tượng “Quán là quán xét, soi xét, lắng nghe; Thế là thế gian, là cuộc đời này; Âm là âm thanh tiếng kêu, tiếng nói”. Từ đó, Bồ-tát không nhất thiết phải là bậc cao siêu ở cõi xa lạ mà bất kỳ ai, có thể chỉ là một người bình thường, nếu biết lắng nghe để cảm thông với nỗi khổ niềm đau, chia sẻ niềm vui, đem lại sự an lạc cho người đều là Bồ-tát... Do khả năng hạn chế, năm giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý căn) nhiều sự việc, hiện tượng con người không thể thấy nghe nhận biết… Những điều không thể suy luận nghĩ bàn, đạo Phật gọi là “bất khả tư nghì” cần phải được thực chứng. Như người uống nước muốn biết nước nóng lạnh, mùi vị ra sao thì phải ngụm vào miệng chứ không thể nắm bắt cảm nhận qua ai đó! Dân gian thường nói “thần giao cách cảm”nghĩa là tinh thần đã giao thì cách xa mấy cũng cảm, trái lại thần không giao tức tâm không đồng, không thông làm sao cảm!
Với niềm tin sâu sắc vào sự linh ứng Bồ-tát Quán Thế Âm, mẹ tôi cầu không vì mình (vô ngã) mà chỉ vì mọi người, con cháu, người thân (vị tha) bởi tương thích với tần số vô ngã, vị tha của hạnh nguyện cứu khổ nên mẹ cầu tất ứng. Còn chúng ta trái lại cầu mà nghi ngờ, so đo với cái tâm hẹp hòi vị kỷ thì cầu sao ứng!
À, thì ra người đàn ông đã giúp tôi ở bến xe… Tôi chợt hiểu và cũng chỉ mình tôi cảm nhận, tôi có nói cho một ai đó họ cũng không tin vì không thể hiểu. Mầu nhiệm và gần gũi thay Bồ-tát Quán Thế Âm, đơn giản chỉ cần biết lắng nghe để san sẻ nỗi khổ niềm đau, đem lại niềm vui dù nhỏ nhoi cho người thân, bạn bè, người chung quanh bằng một lời khuyên, lời an ủi động viên chân tình…việc bình thường ai cũng có thể làm và trở thành vị Bồ-tát. Hãy thực tập hạnh lắng nghe để cuộc đời vơi bớt khổ đau và tràn đầy niềm vui.
Tôi chợt nhận ra niềm tin thâm sâu của mẹ và ý nghĩa lời mẹ dặn.

Cầu siêu có ảnh hưởng đến sự siêu độ của vong linh?

Phật giáo tin cầu siêu có ảnh hưởng đến sự siêu độ của vong linh. Thế nhưng, tác dụng ấy có giới hạn nhất định.
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống. Sau khi người chết rồi, chính người sống tổ chức lễ cầu siêu cho người chết và hồi hướng công đức tu thiện, làm thiện của mình cho người chết.
Kinh Địa Tạng cho biết, lợi ích của lễ cầu siêu có bảy phần, thì sáu phần thuộc về người còn sống (tức là người tổ chức lễ cầu siêu) còn chỉ có một phần lợi ích thuộc về người đã chết.
Đồng thời, Phật giáo chính tín, đối với phương thức lễ cầu siêu, có quan niệm hơi khác với tập tục dân gian. Nói siêu độ là nói độ thoát cõi khổ, siêu thăng đến cõi vui, là dựa vào cảm ứng của nghiệp lực tu thiện của bạn bè, gia thuộc người chết, chứ không phải do một mình tác dụng tụng kinh của tăng ni. Đó là sự cảm ứng do phối hợp nghiệp thiện của người tổ chức siêu độ và sự tu trì của người tụng kinh.
 Ảnh minh họa.
Do đó, Phật giáo chính tín cho rằng, chủ thể của công việc cầu siêu không phải là tăng ni mà là gia thuộc của người chết. Gia thuộc người chết, trong giờ phút lâm chung, nếu biết đem các đồ vật ưa thích của người sắp chết, cúng dường Tam Bảo, bố thí kẻ nghèo, và làm cho người sắp chết hiểu rõ, đó là làm công đức hộ cho anh ta, thì sẽ có tác dụng rất lớn đối với vong linh người chết. Đó là do sự cảm ứng của một niệm thiện nghiệp, do tâm người lúc lâm chung được an ủi, nhờ vậy mà nghiệp thức của người chết hướng tới cõi lành. Đó không phải là mê tín, đó là đạo lý tâm thiện hướng tới cõi thiện.
Nếu khi người thân đã chết mà con cháu, gia thuộc có lòng thành kính thiết tha, tổ chức trai tăng, bố thí, làm điều thiện lớn, tỏ lòng hiếu thảo khẩn thiết cũng có thể có cảm ứng, giúp cho vong linh được siêu linh cõi thiện. Thế nhưng, tác dụng không bằng việc làm khi người đang còn sống, chưa chết.
Khi người con có lòng hiếu chí thành, như Bồ Tát Địa Tạng, để cứu mẹ mà phát lời nguyện đại bi, nguyện vì để cứu mẹ mà đời đời kiếp kiếp sẽ cứu độ chúng sinh ra khỏi biển khổ. Dựa vào sức mạnh của lời nguyện vĩ đại ấy, mà cảm thông được với người chết, giúp người chết giảm bớt hay trừ bỏ được tội ác.
Đó không phải là mê tín, mà là sự cảm thông của lòng hiếu vĩ đại, của tâm nguyện vĩ đại, khiến cho tâm lực và nguyện lực của người siêu độ hòa nhập và cảm thông với nghiệp lực của người siêu độ, cả 2 thông suốt cùng một khí, nhờ vậy, mà người chết được siêu độ.
Vì vậy đối với Phật giáo chính tín, con cái gia thuộc nếu muốn cứu độ người chết, thì nên làm các việc như cúng dường Tam Bảo, bố thí kẻ nghèo, chứ không nhất thiết phải mời Tăng Ni đến tụng kinh. Tăng Ni khi được cúng dường, thì chỉ chú nguyện cho thí chủ mà thôi. Vì Tăng Ni tụng kinh là công việc làm hàng ngày của họ trong các khóa lễ, tụng kinh là một phương pháp tu hành, mục đích của tụng kinh không phải là để siêu độ người chết. Thí chủ cúng dường chư Tăng là để cho chư Tăng có thể tu hành và đạt mục đích của tu hành.
Phật giáo tuy có nói tụng kinh để siêu độ người chết, nhưng đó là hy vọng mọi người đều tụng kinh. Chỉ trong trường hợp mình không biết tụng kinh hay là tụng kinh quá ít, mới thỉnh Tăng Ni tụng kinh thay cho mình.
Thực ra, chức năng của Tăng Ni là duy trì đạo Phật ở thế gian, lấy Phật pháp để hóa độ chúng sinh, chứ không phải chuyên làm việc siêu độ cho người chết. Công đức của tụng kinh là nhờ ở lòng tin Phật pháp và tu hành Phật pháp, cho nên không phải chỉ có Tăng Ni mới tụng kinh, lại càng không phải chỉ khi có người chết mới tụng kinh.
Hơn nữa, thời hạn siêu độ tốt nhất là trong vòng 49 ngày. Bởi vì, Phật giáo tin rằng, chỉ trừ những trường hợp như người có phúc nghiệp lớn, chết thì tái sinh ngay ở sáu cõi trời Dục giới, hay là những người tu định có kết quả, khi chết thì tái sinh ở các cõi trời Thiền định, hay là người có ác nghiệp nặng, chết thì đọa địa ngục lập tức; còn thì đối với người bình thường mà nói, chết xong còn trải qua thời gian 49 ngày chờ đợi cho nghiệp duyên chín mùi mới quyết định tái sinh ở cõi nào.
Nếu trong thời gian này mà con cái, thân nhân biết lấy công đức cúng dường Tam Bảo, bố thí kẻ nghèo để hồi hướng cầu siêu độ thì người chết, nhờ công đức thiện nghiệp ấy cảm ứng hỗ trợ mà được sinh lên cõi thiện (Trời, Người) và được siêu độ. Nếu để qua 49 ngày mới tổ chức cầu siêu thì chỉ có thể tăng thêm phúc đức cho người đó, chứ không thể ảnh hưởng gì đến hướng tái sinh của họ nữa.
Tuy nhiên, cũng có ngoại lệ, trong trường hợp người thân bị chết oan, chết thê thảm, do oan trái chưa trả cho nên có thể sinh ở cõi quỷ, và tiếp tục vòi vĩnh, đòi hỏi đối với người. Thông thường, người ta gọi đó là quỷ ám. Trong trường hợp đặc biệt này, thì cần có tụng kinh siêu độ (nghĩa là thuyết pháp cho quỷ nghe để cho quỷ rõ hướng đi). Nhờ Phật lực giúp cho vong linh tái sinh ở cõi thiện.
Phật giáo thường gọi cõi quỷ là "ngã quỷ" (quỷ đói), cho nên thường dùng mật pháp (như trì chú biến thực, thí thực) để giúp đỡ, tạo ra tác dụng lớn, đặc biệt là đối với loại quỷ lành. Công việc Phật sự đặc biệt này, các tôn giáo khác, kể cả Thần giáo đều không biết.
HT. Thích Thánh Nghiêm

Cầu siêu có ảnh hưởng đến sự siêu độ của vong linh?

Phật giáo tin cầu siêu có ảnh hưởng đến sự siêu độ của vong linh. Thế nhưng, tác dụng ấy có giới hạn nhất định.
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống. Sau khi người chết rồi, chính người sống tổ chức lễ cầu siêu cho người chết và hồi hướng công đức tu thiện, làm thiện của mình cho người chết.
Kinh Địa Tạng cho biết, lợi ích của lễ cầu siêu có bảy phần, thì sáu phần thuộc về người còn sống (tức là người tổ chức lễ cầu siêu) còn chỉ có một phần lợi ích thuộc về người đã chết.
Đồng thời, Phật giáo chính tín, đối với phương thức lễ cầu siêu, có quan niệm hơi khác với tập tục dân gian. Nói siêu độ là nói độ thoát cõi khổ, siêu thăng đến cõi vui, là dựa vào cảm ứng của nghiệp lực tu thiện của bạn bè, gia thuộc người chết, chứ không phải do một mình tác dụng tụng kinh của tăng ni. Đó là sự cảm ứng do phối hợp nghiệp thiện của người tổ chức siêu độ và sự tu trì của người tụng kinh.
 Ảnh minh họa.
Do đó, Phật giáo chính tín cho rằng, chủ thể của công việc cầu siêu không phải là tăng ni mà là gia thuộc của người chết. Gia thuộc người chết, trong giờ phút lâm chung, nếu biết đem các đồ vật ưa thích của người sắp chết, cúng dường Tam Bảo, bố thí kẻ nghèo, và làm cho người sắp chết hiểu rõ, đó là làm công đức hộ cho anh ta, thì sẽ có tác dụng rất lớn đối với vong linh người chết. Đó là do sự cảm ứng của một niệm thiện nghiệp, do tâm người lúc lâm chung được an ủi, nhờ vậy mà nghiệp thức của người chết hướng tới cõi lành. Đó không phải là mê tín, đó là đạo lý tâm thiện hướng tới cõi thiện.
Nếu khi người thân đã chết mà con cháu, gia thuộc có lòng thành kính thiết tha, tổ chức trai tăng, bố thí, làm điều thiện lớn, tỏ lòng hiếu thảo khẩn thiết cũng có thể có cảm ứng, giúp cho vong linh được siêu linh cõi thiện. Thế nhưng, tác dụng không bằng việc làm khi người đang còn sống, chưa chết.
Khi người con có lòng hiếu chí thành, như Bồ Tát Địa Tạng, để cứu mẹ mà phát lời nguyện đại bi, nguyện vì để cứu mẹ mà đời đời kiếp kiếp sẽ cứu độ chúng sinh ra khỏi biển khổ. Dựa vào sức mạnh của lời nguyện vĩ đại ấy, mà cảm thông được với người chết, giúp người chết giảm bớt hay trừ bỏ được tội ác.
Đó không phải là mê tín, mà là sự cảm thông của lòng hiếu vĩ đại, của tâm nguyện vĩ đại, khiến cho tâm lực và nguyện lực của người siêu độ hòa nhập và cảm thông với nghiệp lực của người siêu độ, cả 2 thông suốt cùng một khí, nhờ vậy, mà người chết được siêu độ.
Vì vậy đối với Phật giáo chính tín, con cái gia thuộc nếu muốn cứu độ người chết, thì nên làm các việc như cúng dường Tam Bảo, bố thí kẻ nghèo, chứ không nhất thiết phải mời Tăng Ni đến tụng kinh. Tăng Ni khi được cúng dường, thì chỉ chú nguyện cho thí chủ mà thôi. Vì Tăng Ni tụng kinh là công việc làm hàng ngày của họ trong các khóa lễ, tụng kinh là một phương pháp tu hành, mục đích của tụng kinh không phải là để siêu độ người chết. Thí chủ cúng dường chư Tăng là để cho chư Tăng có thể tu hành và đạt mục đích của tu hành.
Phật giáo tuy có nói tụng kinh để siêu độ người chết, nhưng đó là hy vọng mọi người đều tụng kinh. Chỉ trong trường hợp mình không biết tụng kinh hay là tụng kinh quá ít, mới thỉnh Tăng Ni tụng kinh thay cho mình.
Thực ra, chức năng của Tăng Ni là duy trì đạo Phật ở thế gian, lấy Phật pháp để hóa độ chúng sinh, chứ không phải chuyên làm việc siêu độ cho người chết. Công đức của tụng kinh là nhờ ở lòng tin Phật pháp và tu hành Phật pháp, cho nên không phải chỉ có Tăng Ni mới tụng kinh, lại càng không phải chỉ khi có người chết mới tụng kinh.
Hơn nữa, thời hạn siêu độ tốt nhất là trong vòng 49 ngày. Bởi vì, Phật giáo tin rằng, chỉ trừ những trường hợp như người có phúc nghiệp lớn, chết thì tái sinh ngay ở sáu cõi trời Dục giới, hay là những người tu định có kết quả, khi chết thì tái sinh ở các cõi trời Thiền định, hay là người có ác nghiệp nặng, chết thì đọa địa ngục lập tức; còn thì đối với người bình thường mà nói, chết xong còn trải qua thời gian 49 ngày chờ đợi cho nghiệp duyên chín mùi mới quyết định tái sinh ở cõi nào.
Nếu trong thời gian này mà con cái, thân nhân biết lấy công đức cúng dường Tam Bảo, bố thí kẻ nghèo để hồi hướng cầu siêu độ thì người chết, nhờ công đức thiện nghiệp ấy cảm ứng hỗ trợ mà được sinh lên cõi thiện (Trời, Người) và được siêu độ. Nếu để qua 49 ngày mới tổ chức cầu siêu thì chỉ có thể tăng thêm phúc đức cho người đó, chứ không thể ảnh hưởng gì đến hướng tái sinh của họ nữa.
Tuy nhiên, cũng có ngoại lệ, trong trường hợp người thân bị chết oan, chết thê thảm, do oan trái chưa trả cho nên có thể sinh ở cõi quỷ, và tiếp tục vòi vĩnh, đòi hỏi đối với người. Thông thường, người ta gọi đó là quỷ ám. Trong trường hợp đặc biệt này, thì cần có tụng kinh siêu độ (nghĩa là thuyết pháp cho quỷ nghe để cho quỷ rõ hướng đi). Nhờ Phật lực giúp cho vong linh tái sinh ở cõi thiện.
Phật giáo thường gọi cõi quỷ là "ngã quỷ" (quỷ đói), cho nên thường dùng mật pháp (như trì chú biến thực, thí thực) để giúp đỡ, tạo ra tác dụng lớn, đặc biệt là đối với loại quỷ lành. Công việc Phật sự đặc biệt này, các tôn giáo khác, kể cả Thần giáo đều không biết.
HT. Thích Thánh Nghiêm

Vu lan nhắc đạo làm con

VOV.VN -Ngày lễ Vu lan là dịp nhắc nhở mọi người về công ơn sinh thành, dưỡng dục của tổ tiên, ông bà, cha mẹ…
Vu lan là ngày lễ truyền thống quan trọng, thể hiện tinh thần hiếu đạo mang đậm nét văn hóa Phật giáo. Ngày lễ Vu lan, vào rằm tháng 7 là dịp nhắc nhở mọi người về công ơn sinh thành, dưỡng dục của tổ tiên, ông bà, cha mẹ và những người có công với đất nước.

Trong dòng đời hối hả với nhiều câu chuyện buồn về tình cảm gia đình, Vu lan như một lời nhắc nhở, giúp nhiều bạn trẻ sống chậm lại, tĩnh tâm và suy nghĩ nhiều hơn về chữ “Hiếu”.

Lễ Vu lan năm nay, chùa Bằng A – phường Hoàng Liệt, Hà Nội lại mở rộng cửa để đón các bạn trẻ tham dự khóa tu “Vu lan báo hiếu”. Không ồn ào, náo nhiệt hay chen lấn, xô đẩy, chỉ trong một buổi sáng, hơn 300 bạn trẻ là những học sinh, sinh viên trên địa bàn Hà Nội đã tình nguyện vào chùa ở 2 ngày.
Phật tử thành tâm cầu siêu hướng về vong linh của các anh hùng liệt sỹ, người thân đã quá vãng 
Tắt hết điện thoại, tạm xa các phương tiện nghe nhìn hay Internet, một ngày mới bắt đầu từ 5h trong tiếng tụng kinh, niệm Phật và nghe sư thầy thuyết giảng về chữ “Hiếu”.
“Nếu có cha, chúng ta thấy mình được bao dung, che chở. Nếu có mẹ, chúng ta biết mình còn được yêu thương, chiều chuộng, được chăm sóc ân cần”, hay “Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ, gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha”… Tiếng sư thầy vẫn đều đều trong không gian tĩnh lặng và nhiều bạn trẻ đã không cầm được nước mắt.
Phạm Thị Huế, sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội bày tỏ: “Những điều thầy giảng cho chúng tôi nhiều hành trang để bước vào cuộc sống và nhớ ơn tất cả mọi người. Vì quê xa, tôi không có điều kiện về thăm bố mẹ ngay được, nhưng tôi sẽ viết một bức thư và bày tỏ tình cảm với bố mẹ”.
Đối với Phạm Duy Khoa, sinh viên năm thứ 3 Học viên Kỹ thuật Quân sự, anh đã nhận ra được rằng, đại lễ Vu lan chính là dịp để thắp lên trong lòng sự hiếu thảo đối với cha mẹ. Từ đó biết yêu quý, trân trọng những tình cảm cha mẹ dành cho mình. Được cài trên ngực bông hồng màu đỏ khi tham dự nghi lễ “Bông hồng cài áo”, nghi thức quan trọng nhất trong đại lễ Vu Lan, Khoa thấy mình là người may mắn trên cuộc đời vì còn cả cha và mẹ, được yêu thương và chở che và Khoa cũng hiểu được rằng, tinh thần báo hiếu phải được thể hiện suốt 365 ngày trong một năm và suốt cuộc đời này chứ không chỉ vào ngày Vu lan.
Chữ "Hiếu" trong lễ Vu lan là tấm lòng thành kính với cha mẹ ngay khi còn sống, thể hiện trong cách giao tiếp và ứng xử nhân văn với mọi người. Tinh thần ảnh hưởng của ngày lễ Vu lan sẽ có tác dụng mạnh mẽ, khuyến khích các bạn trẻ sống có trách nhiệm hơn với bản thân và những người xung quanh.
Hòa Thượng Thích Bảo Nghiêm, Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng ban Hoằng pháp Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho biết: “Chúng tôi muốn chú trọng đến lớp trẻ, vì lớp trẻ bị một khoảng trống do không quan niệm đúng chữ Hiếu. Nhiều khi xảy ra điều đáng buồn như con cái cãi lại cha mẹ, bỏ rơi cha mẹ, đánh lại cha mẹ. Khóa tu này chúng tôi muốn chuyển đến bạn trẻ tinh thần biết ơn cha mẹ, bằng cách vâng lời cha mẹ qua lời Phật dậy; hiếu hạnh với cha mẹ là công đức lớn. Bên cạnh đó, chúng tôi giáo dục các em về 4 ơn lớn: ơn tam bảo; ơn quốc gia xã hội; ơn cha mẹ sinh thành, thầy dạy bảo và ơn tất cả mọi người trong xã hội”.
Cuộc sống vẫn hối hả trôi đi. Trong sự gấp gáp đó, biết bao người cha, người mẹ, người ông, người bà đã phải giấu nước mắt vào trong khi bị con cháu đối xử tệ bạc.
Nhưng nếu ai đã một lần được tham dự khóa tu “Vu lan báo hiếu” hay được cài bông hồng đỏ trên ngực trong dịp lễ Vu lan, thì có thể họ sẽ để lòng mình lắng lại, nghĩ nhiều hơn về chữ “ Hiếu” và trân trọng những gì đang có./.   

Tối 20/8 (tức 14 /7 Âm lịch), chùa Phúc Khánh (Đống Đa, Hà Nội) đã tổ chức Đại lễ Vu Lan báo hiếu. Hàng nghìn người đến từ khắp nơi có chung một lòng thành kính đã về tham dự.
Vốn là một ngôi chùa được xem là linh thiêng vào bậc nhất Hà Nội, hằng năm vào Rằm tháng Giêng và Rằm tháng 7 âm lịch, chùa Phúc Khánh luôn có hàng nghìn phật tử đến đăng ký làm lễ. Được biết, bắt đầu sang tháng 7 âm lịch, phật tử đã tấp nập đến chùa để làm lễ Vu lan.
Cũng như mọi năm, vào ngày chính lễ, hiện tượng “quá tải” do lượng người tham dự quá đông vẫn diễn ra. Không chỉ ngồi chật kín trong khuôn viên chùa, dòng người đứng xếp hàng kéo dài tới ngoài cổng chùa, thậm chí sang cả phía đường Láng, tràn lên cả cầu vượt Ngã Tư Sở để tụng kinh.


Mặc dù 19h lễ mới chính thức tiến hành nhưng không ít Phật tử phải đến từ buổi chiều để giữ chỗ. Vào 16h, tại điện Tam Bảo, nơi diễn ra lễ chính, hàng trăm người xếp chật cứng, không còn lấy một chỗ trống. Ngoài sân chùa, bậc cầu thang, khuôn viên... người ngồi cầu khấn đông nghịt.
Cũng như nhiều chùa khác, năm nay, chùa Phúc Khánh nghiêm cấm mang lễ đồ mã. Những chiếc xe máy, nhà lầu, ipad... hàng mã vì thế cũng không còn xuất hiện. Chỉ còn tiền vàng, tiền âm phủ và áo giấy được sử dụng.
Các gia đình đi lễ thường có thêm mâm cúng chúng sinh, gạo muối, các loại bỏng, xôi oản, bánh kẹo, tiền vàng đặt dưới sảnh đi vào điện chính cho những linh hồn lang thang không nơi nương tựa, không còn người thân ở trần gian hoặc oan hồn. Ngoài các đồ lễ, người dân còn mua thêm cá, ốc, chim sẻ… để làm lễ phóng sinh nhằm cứu khổ, cứu nạn cho các sinh linh.
Càng gần giờ hành lễ, dòng người đổ về chùa càng đông. Cơn mưa kéo dài không ngăn nổi bước chân những người dân, Phật tử hướng về đại lễ Vu Lan. Các bãi đỗ xe tự phát trước cổng chùa luôn trong tình trạng chật cứng, phải xếp tràn xuống cả lòng đường.
Dự đoán trước tình hình, lực lượng chức năng đã có mặt tại khu vực chùa Phúc Khánh từ đầu giờ chiều để giữ gìn an ninh trật tự, cũng như làm nhiệm vụ phân làn giao thông. Tuy nhiên, do lượng người quá đông, tình trạng ùn tắc cục bộ vẫn diễn ra.
Đã thành lệ, năm nào đến Rằm tháng 7, bác Ngân (Phan Bội Châu, Hoàn Kiếm, Hn) cũng đi chùa làm lễ. Bác Ngân tâm sự: “Báo hiếu không phải là chuyện trong một ngày, nhưng tôi tin vào những ngày như thế này, ở nơi chín suối các cụ sẽ mừng hơn khi biết con cháu đang cầu nguyện cho mình, và bản thân tôi cũng thấy mình tĩnh tâm hơn để tiếp tục sống tốt. Vì vậy, dù vất vả, năm nào tôi cũng đi”.
Dù xa nhà, nhưng Nguyễn Hà Oanh (Sinh viên ĐH KHXH &NV, Hà Nội) vẫn đi chùa dự lễ. Oanh cho biết: “Tham dự lễ Vu Lan làm cho tôi có nhiều thời gian để nhìn lại mình, nghĩ về chữ hiếu với gia đình, bố mẹ, tĩnh tâm hơn và sống chín chắn hơn”./.

Một số hình ảnh tại lễ Vu Lan của chùa Phúc Khánh do PV VOV online ghi lại: 
Ngay từ  đầu giờ chiều đã có nhiều người tới chùa Phúc Khánh để chuẩn bị cho ngày đại lễ. 

Bên trong điện Tam Bảo, ngay từ 16h, lượng người làm lễ đã chật kín

Người dân đến dự lễ tìm chỗ trú mưa

Tranh thủ ăn vội bát cơm trước khi đến giờ hành lễ

Cơn mưa nặng hạt khiến cho nhiều người phải che ô trong sân chùa



Càng về tối, lượng người đổ về càng thêm đông

Mặc dù bên trong chùa đã kín chỗ, nhưng nhiều người vẫn muốn vào tận nơi làm lễ

Đoạn đường Tây Sơn, chân cầu vượt Ngã Tư Sở đông nghịt

Giao thông ùn tắc cục bộ

Nhiều người dân không vào được chùa đã cầu khấn ở bên ngoài

Ánh mắt luôn dõi về phía cửa chùa

Đứng trên cầu vượt hướng về phía chùa

Không chỉ có người lớn tuổi...

... mà nhiều bạn trẻ cũng đội mưa dự lễ

Hàng nghìn người dự lễ Vu lan tại chùa lớn nhất Sài Gòn

Sáng 21/8, nghìn nghịt người đổ về chật cứng chùa Hoằng Pháp xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn (TP HCM) tham dự lễ Vu lan báo hiếu.

NAL-8080-JPG-1377078425.jpg
Từ sáng sớm, khoảng 6.000 phật tử chờ sẵn trong chánh điện chùa Hoằng Pháp trước khi làm lễ báo hiếu. 
NAL-8097-JPG-1377078426.jpg
Ở sân chùa, nơi thờ đức phật Bồ Tát cũng có cả nghìn người chen chân thắp hương.
NAL-8172-JPG-1377078426.jpg
Dòng người đông nghịt vẫn tiếp tục kéo đến chùa Hoằng Pháp dù không còn chỗ vào chánh điện. Họ đành ngồi ngoài sân cầu nguyện. 
NAL-8501-1377078426.jpg
Tất cả đều nghiêm trang chắp lễ.
NAL-8135-JPG-1377078426.jpg
Đúng 9h nghi lễ đón các tăng ni phật tử báo hiếu bắt đầu.
NAL-8217-JPG-1377078426.jpg
Khi bài hát "Bông hồng cài áo" vang lên, cảm xúc dâng trào khiến nhiều người rơi nước mắt.
NAL-8256-JPG-1377078427.jpg
Nghi thức cài hoa vào áo với hoa hồng vàng dành cho Chư Tôn Đức, hoa hồng trắng cho ai mất mẹ và hoa hồng đỏ cho những người may mắn còn có mẹ. 
NAL-8287-JPG-1377078427.jpg
Các phật tử tham dự lễ đa phần đã lớn tuổi. 
NAL-8340-JPG-1377078427.jpg
Ngày lễ Vu Lan là dịp để tri ân công ơn các đấng sinh thành.
NAL-8447-JPG-1377078427.jpg
Dâng lễ báo hiếu trước đức phật Thích Ca Mô Ni. 
NAL-8438-1377078427.jpg
 Phần nghi lễ kéo dài hơn một giờ để cùng đọc lại những lời dạy của Đức Phật về chữ Hiếu

Những bông hồng cài áo ngày Vu Lan báo hiếu

(Dân trí) - Tối 20/8 (nhằm 14 tháng 7 âm lịch), các chùa lớn trên cả nước đều đông nghịt người đổ về dự lễ Vu Lan.

(Thực hiện: K. Hiền)
 
Tại chùa Pháp Lâm (quận Hải Châu, Đà Nẵng), dòng người đổ về từ chiều đến tối mỗi lúc một đông. Người dân, phật tử đến chùa ngày này đều tham gia nghi thức hoa hồng cài áo. Có bốn loại hoa hồng, hoa hồng nơ xanh dành cho người còn cha còn mẹ, hoa hồng nơ trắng dành cho người đã mất cha; hoa trắng nơ xanh dành cho người đã mất mẹ, hoa trắng nơ trắng cho người không còn mẹ còn cha.
 
Lễ Vu Lan báo hiếu tại chùa Quang Minh (Ảnh: K. Hồng)
Lễ Vu Lan báo hiếu tại chùa Quang Minh (Ảnh: K. Hồng)
Hạnh phúc khi được gắn hoa hồng nơ xanh
Hạnh phúc khi được gắn hoa hồng nơ xanh (Ảnh: K. Hiền)
 
(Ảnh: K. Hồng)
(Ảnh: K. Hồng)
Mỗi hoa hồng cài lên ngực áo biểu tượng cho lòng hiếu hạnh của người làm con
(Ảnh: K. Hiền)
Mỗi hoa hồng cài lên ngực áo biểu tượng cho lòng hiếu hạnh của người làm con
Mỗi hoa hồng cài lên ngực áo biểu tượng cho lòng hiếu hạnh của người làm con (Ảnh: K. Hiền)
 
(Ảnh: K. Hồng)
(Ảnh: K. Hồng)
Mẹ đọc cho con nghe về ý nghĩa của nghi thức cài hoa hồng
Mẹ đọc cho con nghe về ý nghĩa của nghi thức cài hoa hồng (Ảnh: K. Hiền)
Chị Thảo (phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu) đang dự lễ Vu Lan tại chùa Quang Minh cho biết: “Cứ đến mùa Vu Lan báo hiếu tôi lại đến chùa để bày tỏ tấm lòng của mình với ông bà tổ tiên, các bậc sinh thành và cầu nguyện cho gia đình mình luôn khỏe mạnh, bình an. Thật là hạnh phúc khi tôi còn ba còn mẹ!”.
Phía trong chính điện, nhiều người đã không kiềm được xúc động khi nghe kinh Vu Lan, kinh báo hiếu dạy người làm con hiểu sự hy sinh của đấng sinh thành, mỗi một câu “bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn” cũng thấm đẫm tình yêu thương thiêng liêng vô bờ bến của đấng sinh thành.
Thành kính nghe kinh báo hiếu
Thành kính nghe kinh báo hiếu (Ảnh: K. Hiền)
Cũng trong dịp lễ Rằm tháng Bảy âm lịch, nhà nhà đều bày mâm cơm trong nhà cúng tổ tiên, ông bà; và một mâm cơm cúng ngoài sân để dành cho những linh hồn lang bạt.
Nhà nhà bày mâm cúng rắm tháng Bảy
Nhà nhà bày mâm cúng rắm tháng Bảy (Ảnh: K. Hiền).
 
Chùa Quán Sứ (Hà Nội) cũng đông nghịt người và phật tử tới dự lễ Vu Lan. Có mặt tham dự buổi lễ, được hạnh phúc cài bông hồng đỏ thắm, chị Lê Thị Huyền - một phật tử đến từ Đê La Thành (Đống Đa, Hà Nội) chia sẻ: “Tôi cảm thấy mình thật may mắn và hạnh phúc khi vẫn còn có mẹ để thương yêu, có cha để báo hiếu. Tham dự buổi lễ bông hồng cài áo hôm nay, tôi muốn gửi lời cầu chúc sức khỏe, bình an đến với đấng sinh thành trong dịp mùa lễ Vu Lan báo hiếu”.

Nhiều bạn trẻ tham dự lễ Vu Lan báo hiếu tại chùa Quán Sứ.
Nhiều bạn trẻ tham dự lễ Vu Lan báo hiếu tại chùa Quán Sứ.
 
Ông Vi Văn Tuyền - một phật tử đến từ quận Hai Bà Trưng (Hà Nội) - xúc động: “Cha mẹ tôi không còn để tôi được báo hiếu, tôi gắn bông hồng trắng này để gửi tấm lòng tưởng nhớ đến bậc sinh thành đã khuất. Dù còn hay không còn mẹ cha cũng hãy trân trọng mùa Vu lan để bày tỏ tấm lòng thành kính nhớ ơn đấng sinh thành”.

Tại buổi lễ, hàng trăm Phật tử, người dân thành kính truyền tay nhau những bông hoa hồng đỏ, trắng để cùng cài lên ngực áo tri ân tưởng nhớ đấng sinh thành. Đâu đó, những giọt nước mắt, sự bùi ngùi xúc động lan tỏa khắp khu vực diễn ra đại lễ.

Ai cũng xúc động khi nhớ về công ơn của các bậc sinh thành.
Ai cũng xúc động khi nhớ về công ơn của các bậc sinh thành.
Ai cũng xúc động khi nhớ về công ơn của các bậc sinh thành.
Ai cũng xúc động khi nhớ về công ơn của các bậc sinh thành.

(Ảnh: Quốc Đô).
(Ảnh: Quốc Đô).
(Ảnh: Quốc Đô).

Vu Lan báo hiếu: ‘Mẹ một đời đôi dép lạc bàn chân’

Thuộc chuyên đề:  Mùa Vu Lan - mùa báo hiếu
(VTC News) - Mùa báo hiếu này, tôi trở về với mẹ, khẽ chạm tay vào những ký ức của ngày còn cha, thấy những nhớ thương đong đầy trong mắt.



Hàng nghìn người đội mưa dự lễ Vu Lan báo hiếu

VOV.VN -Nhân dịp Rằm tháng bảy, đông đảo người dân, Phật tử đã về chùa Phúc Khánh để cầu nguyện và dự lễ Vu Lan.

Ai đã từng xem bộ phim kinh điển Đường sơn đại địa chấn hẳn còn nhớ hình ảnh người mẹ gào khóc trong tuyệt vọng vì không cứu được cả 2 đứa con dưới đống đổ nát của trận động đất lịch sử, để rồi suốt 32 năm sau đó bà sống trong sự dằn vặt và tự dày vò bản thân mình.

Vu Lan báo hiếu: ‘Mẹ một đời đôi dép lạc bàn chân’
Hình ảnh trong Đường Sơn đại địa chấn 
Vào tháng 3/2011, nước Nhật cũng trải qua một trận động đất kinh hoàng cướp đi sinh mạng của hàng ngàn người, người ta đã nói rất nhiều về ý chí Nhật, lòng kiên cường và sức mạnh của đất nước Mặt trời mọc, còn tôi, lại ám ảnh với hình ảnh người mẹ cong người cố che cho đứa con khi ngôi nhà sập xuống.


Câu chuyện cảm động được truyền đi rằng, khi đội cứu hộ đến, họ tìm thấy một cậu bé 3 tháng tuổi say ngủ trong chiếc chăn hoa bên dưới thi thể của người mẹ. Nhiều người nói tình tiết cuối mang màu sắc huyền thoại. Dù câu chuyện đúng, hay là sản phẩm của trí tưởng tượng, tôi cũng tin rằng, tình mẫu tử ấy là có thật, và hành động hy sinh thân mình che cho cậu con trai bé bỏng, cũng là thật.


Gần gũi hơn, có ai không rớt nước mắt khi chứng kiến người cha của cậu thủ khoa Đại học Y, gầy gò và mang gương mặt khắc khổ ngày ngày sống lầm lũi trong chiếc ống cống, người mẹ thức trắng đêm vặt lông vịt thuê kiếm từng đồng khó nhọc, để con được bước chân vào giảng đường nuôi tiếp những ước mơ, với tình yêu thương vô bờ bến.


Tất cả họ, không nói chung ngôn ngữ, không cùng biên giới, văn hóa hay quốc tịch, nhưng đều gặp nhau ở tình mẫu tử, phụ tử thiêng liêng và cao quý hơn tất thảy mọi thứ trên đời.


Tôi đã bắt gặp hình ảnh cha mẹ mình trong những câu chuyện cảm động ấy.


Còn nhớ câu trả lời cho câu hỏi  ‘Nếu ai hỏi đất nước em hình gì? Em sẽ trả lời ra sao?’ khiến tôi đau đáu: ‘Đất nước em là dải đất hình chữ S nép mình bên bờ biển Đông, đất nước em là hình người mẹ già đội nón lưng còng che nắng che mưa cho suốt cả chiều dài lịch sử…’ Hình ảnh người mẹ ấy, với tình yêu thương lớn lao không gì so sánh được, đã được nâng lên thành biểu tượng của một dân tộc luôn mơ về cánh chim câu hoàn bình và ước vọng lòng nhân ái.

Vu Lan báo hiếu: ‘Mẹ một đời đôi dép lạc bàn chân’
Dân tộc tôi, và ước vọng lòng nhân ái 
Tháng 7, mùa Vu Lan báo hiếu về, có người con nào không nhớ tới những người cha, người mẹ, công ơn hoài thai ấp ủ mang nặng đẻ đau suốt 9 tháng 10 ngày, công ơn dưỡng dục bằng những chắt chiu yêu thương và hy sinh thầm lặng suốt cả cuộc đời.


Cha một đời oằn vai gánh nặng

Mẹ một đời đôi dép lạc bàn chân


Tôi lớn lên cho thế giới quanh mình nhỏ lại, khi mái đầu tôi xanh những ước mơ của một thời tuổi trẻ và đôi chân đủ sức chạy theo bao hoài bão, ấy là khi mái đầu mẹ cha đã ngả bạc, là khi đôi chân mẹ cha bắt đầu chậm lại vì những năm tháng nhọc nhằn nuôi con nên người.


Khi tôi vội vã phương xa với những dự định dang dở, những mộng ước chưa thành, ấy là khi mẹ cha lặng lẽ dõi đôi mắt theo mỗi bước đường tôi đi.


Khi tôi lê đôi chân mỏi mệt trở về, vòng tay mẹ cha rộng dài, vỗ về tôi trước những thất bại đầu đời, cho tôi thêm sức mạnh đi tiếp đoạn đường giông gió.


Tôi đã lớn lên trong những yêu thương ấy, cho đến một buổi sáng đầy nắng, tôi đau đớn nhìn người đàn ông thương yêu nhất trong cuộc đời vĩnh viễn ra đi trên chính đôi tay của mình, sau những tháng ngày chống chọi với bệnh tật và niềm lạc quan chưa bao giờ tắt.

Vu Lan báo hiếu: ‘Mẹ một đời đôi dép lạc bàn chân’
Mùa báo hiếu này, tôi trở về với mẹ...

Mùa báo hiếu này, tôi trở về với mẹ, khẽ chạm tay vào những ký ức của ngày còn cha, thấy nhớ thương đong đầy trong mắt. Những tháng năm xưa vẫn nằm lại trong tim, như mới ngày hôm qua.


Lén nhìn qua khe cửa, thấy mẹ thui thủi một mình gom lá đốt trong vườn chiều, mùi khói bay lên tôi thấy trong gió cay cả mùi nước mắt. Tôi khóc, khi nhìn bóng mẹ nghiêng nghiêng đi về phía xế chiều sau một cuộc đời lam lũ, có giọt nước mắt nào chảy ngược về phía ấy không?


Vu Lan, gửi lời tri ân thành kính với những yêu thương chưa một lần dám nói với mẹ, với những ký ức của ngày còn cha…




Vu-lan

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Vu-lan
Vu-lan

Lễ Vu-lan tại chùa Quảng Hóa, Bắc Kinh
Gìn giữ bởiphật tử, Đạo giáo
NgàySáng 15 tháng 7 Âm lịch
Vu-lan (chữ Hán: 盂蘭; sa. ullambana), còn được hiểu là lễ báo hiếu, là một trong những ngày lễ chính của Phật giáo. Lễ này trùng với Tết Trung nguyên của người Hán, và cũng trùng hợp với ngày Rằm tháng 7 Xá tội vong nhân của phong tục Á Đông. Vào ngày này, mọi tù nhân ở Địa ngục có cơ hội được xá tội, được thoát sanh về cảnh giới an lành. Theo tín ngưỡng dân gian, là ngày mở cửa ngục, ân xá cho vong nhân nên có lễ cúng Cô Hồn (vào buổi chiều) cho các vong linh không nhà cửa không nơi nương tựa, không có thân nhân trên Dương thế thờ cúng.

Từ nguyên

Vu-lan (chữ Hán: 盂蘭; sa. ullambana) là từ viết tắt của Vu-lan-bồn (盂蘭盆), cũng được gọi là Ô-lam-bà-noa (烏藍婆拏), là cách phiên âm Phạn-Hán từ danh từ ullambana. Ullambana có gốc từ động từ ud-√lamb, nghĩa là "treo (ngược) lên". Thế nên các đại sư Trung Quốc cũng dùng từ Đảo huyền (倒懸), "treo ngược lên" cho từ Vu-lan, hoặc dùng từ Giải đảo huyền(解倒懸) là dịch ý theo mục đích của Kinh Vu-lan-bồn. Thật ra, từ Giải đảo huyền được các đại sư Trung Quốc lấy ý từ câu: Dân chi duyệt chi do giải đảo huyền dã trong Mạnh Tử, chương 3 Công Tôn Sửu Thượng. Chỉ sự giải thoát cho những kẻ khổ sở tột cùng ở cảnh giới Địa ngục[1].

Truyền thuyết

Xuất phát từ truyền thuyết về Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ. Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung) - cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước[1].
Theo kinh Vu Lan thì ngày xưa, Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông. Mẫu thân ông là bà Thanh Đề đã qua đời, ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt phép nhìn khắp trời đất để tìm[1]. Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác nên phải sanh làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng đã hóa thành lửa đỏ[1].
Mục Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: "Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để cung thỉnh chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó".
Làm theo lời Phật, mẹ của Mục Liên đã được giải thoát. Phật cũng dạy rằng: chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu-Lan-Bồn Pháp). Từ đó, ngày lễ Vu-lan ra đời[1].

Truyền thống lễ nghi

Trong một số nước Á Đông, ngày lễ này thường được tổ chức vào ngày 15 tháng 7 (Âm lịch), để tỏ hiếu với cha mẹ, ông bà và cũng để giúp đỡ những linh hồn đói khát. Ở Nhật Bản ngày lễ này được tổ chức vào ngày 15 tháng 7, hay là ngày 15 tháng 8 (tính theo Âm lịch) để tỏ những ước nguyện của mình, người ta viết ước nguyện rồi treo vào cây trúc với mong ước điều ước đó sẽ trở thành hiện thực.
Tại Việt Nam, việc cúng Rằm tháng Bảy bao giờ cũng phải cúng ở chùa (thờ Phật) trước, rồi mới đến cúng tại gia[2]. Lễ này thường được làm vào ban ngày, tránh làm vào ban đêm, khi Mặt Trời đã lặn[2][3].
Vào ngày này, mọi gia đình đều cúng hai mâm: cúng tổ tiên tại bàn thờ tổ tiên và cúng chúng sinh (cúng thí thực hay cúng cô hồn) ở sân trước nhà hoặc trên vỉa hè (nếu đường rộng), thời gian cúng có thể là vào buổi sáng, trưa hoặc chiều[2].
Trên mâm cúng tổ tiên, gia đình bày đặt một mâm cỗ mặn, tiền vàng và cả những vật dụng dành cho người cõi Âm làm bằng giấy tượng trưng từ những vật truyền thống (giống như đồ thật) như quần áo[4][5], giày dép, áo bào, cung điện, ngựa, các vật dụng trang sức ...[5], mũ kepi, người giúp việc [6]... đến những vật hiện đại: nhà cao tầng, xe ô tô, xe máy, điện thoại ...[4][5][7] để cho người cõi Âm có được một cuộc sống tiện nghi giống như người Dương trần.[3] Những đồ lễ đó thường được làm tại các cơ sở sản xuất (nổi tiếng là khu phố vàng mã ở chợ lớn TP.HCM" được vận chuyển đi khắp các tỉnh thành[5][7].
Trên mâm cúng chúng sinh thì lễ vật gồm có: quần áo chúng sinh với nhiều màu sắc (xanh lam, xanh lá mạ, vàng, hồng...), các loại bỏng ngô, chè lam, kẹo vừng, kẹo dồi, bánh quế, cháo, tiền vàng, cốc nước lã hoặc rượu (có thể thêm nước ngọt, bia nếu có điều kiện), cốc gạo trộn lẫn với muối (cốc này sẽ được rắc ra vỉa hè hoặc sân nhà về bốn phương tám hướng sau khi cúng xong), ngô, khoai lang luộc, cháo hoa... và những lễ vật khác dành cho những cô hồn, ma đói không nơi nương tựa. ở chùa khi cúng chúng sinh xong người ta thường gọi những đứa trẻ xung quanh đến rồi cho chúng cùng nhảy vào tranh cướp những vật cúng: như bỏng, oản...Tượng trưng cho những cô hồn...[3]

Nhạc và Video về Vu-lan

Xem thêm

 

Lễ Vu lan là ngày báo hiếu của con cái đối với các bậc sinh thành. Với những người không còn cha mẹ trên cõi đời, họ cầu nguyện cho cha mẹ mình được thanh thản, vui vẻ nơi chín suối.
Lên chùa tìm sự bình an và giải thoát
Ngày lễ Vu Lan gắn với truyền thuyết về Bồ Tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ khỏi kiếp ngạ quỷ bằng cách nghe theo lời dạy của Phật rằng phải hợp cùng các chư tăng sắm sửa đồ cúng lễ vào ngày rằm tháng 7. Bồ Tát đã thành công trong việc cứu mẹ mình, do vậy ngày rằm tháng tháng 7 còn được gọi là ngày “Đại lễ báo hiếu”.
Có lẽ vì đó mà trong những ngày này, từ 11 - 15/7 (âm lịch) tại các chùa đều rất đông các phật tử tới cầu nguyện cho cha mẹ, tổ tiên, ông bà hay người trong gia đình đã khuất.
Chắp tay cúi xin đức Phật phù hộ
Anh Nguyễn Văn An, Hai Bà Trưng, Hà Nội chia sẻ, năm nào cũng vậy, anh đến chùa để cầu cho những người đã mất trong nhà được giải thoát không phải vướng bận việc trần. Đồng thời, tự mình cũng muốn tìm sự bình yên và thanh thản nơi cửa Phật.
Còn với chị Nguyễn Thị Ánh, Trương Định, Hà Nội thì lễ Vu Lan không chỉ là dịp để mọi người bày tỏ tấm lòng thành kính đối với tổ tiên, người đã khuất,mà còn là ngày để bày tỏ tình cảm, sự yêu thương với người còn sống, những người có hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn… Với chị Ánh, lên chùa những ngày này cũng là tìm đến sự bình yên và cầu mong được “giải thoát” không chỉ cho người đã khuất mà cho cả chính bản thân khỏi nhưng yếu hèn, tội lỗi, cám dỗ… trong cuộc sống thường ngày.
Thượng toạ Thích Thanh Nhiễu – Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho biết, lễ Vu Lan được chùa Quán Sứ tổ chức trong 3 ngày từ 11 – 13/7 (âm lịch) với rất nhiều khoá lễ kéo dài từ sáng sớm cho tới chiều tối. Các khoá lễ được tổ chức để tỏ lòng biết ơn đến Đức Phật, báo hiếu cha mẹ, cầu siêu cho các anh hùng liệt sỹ, những người có công với nước…
Trong những ngày này, các lư hương ở chùa luôn trong tình trạnh nghi ngút khói
Cũng theo Thượng tọa Thích Thanh Nhiễu, ngày rằm tháng 7 không nằm ở mâm cao cỗ đầy mà ở thái độ và lương tâm của mỗi con người. Mỗi nơi, mỗi nhà một khác, nhưng giống nhau ở tấm lòng thành, hướng về cội nguồn thể hiện truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Việt Nam.
Bên cạnh đó, các chùa như: Trấn Quốc, Vạn Niên, Tảo Sách… cũng đều đồng loạt tổ chức các khóa lễ cầu an, cầu siêu… cho những vong linh đã khuất và cho cả những “vong hồn lang thang”… 
Mỗi người một cách báo hiếu
Đối với người Việt Nam, đạo hiếu luôn là điều quan trọng của một con người. Chính vì vậy, việc thờ cúng tổ tiên hay những người đã khuất luôn được người Việt chú ý và coi trọng. Bởi điều đó phần nào thể hiện được tấm lòng của người còn sống với người đã khuất, đạo lý “uống nước thì phải nhờ nguồn” của dân ta.
Đặc biệt, ngày rằm tháng 7 - ngày “xá tội vong nhân” hay lễ Vu Lan luôn được các gia đình người Việt “sắm sửa” một cách cẩn thận từ mâm cơm cúng cho tới đồ mã... Nhưng không phải nhà nào cũng giống nhà nào.
Đồ mã trong ngày Vu Lan là thứ không thế thiếu
Bà Đỗ Thu Minh, 60 tuổi, ở Quang Trung, Hà Nội cho biết, việc thờ cúng tổ tiên, ông bà hay những người đã khuất luôn là một điều tốt. Nó thể hiện tấm lòng hướng về cội nguồn, tổ tiên của ngưởi Việt. Tuy nhiên, việc thờ cũng là cái tâm của mình, không phải mâm cao cỗ đầy, đồ đắt tiền... mới tốt. Nếu mình có tâm, thì một mâm cơm đơn giản cùng chút vàng mã cũng đủ. Điều quan trọng là những việc trước kia mình hối tiếc không làm, bây giờ không còn cơ hội thì “xin người đã khuất xá tội”. Cần nhất là tâm hồn mình được thanh thản, yên ổn.
Đó cũng lã suy nghĩ của bà Vũ Bảo Trâm, 63 tuổi, Gia Lâm, Hà Nội, ngày lễ “xá tội vong nhân” là để cho con cháu thể hiện cái tâm của mình với những người đã mất trong nhà. Có thể lên chùa, cũng có thể làm lễ cúng ở nhà vì quan trọng không phải là hình thức mà là thành ý của mình. Mâm cúng thế nào là do mình sắp xếp, cũng chỉ cần đốt một ít tiền vàng.
Những đồng đô la "âm phủ" này liệu có tới được với "chủ" sau khi hoá đi
Thường các ngày giỗ, giỗ ai thì đốt tiền vàng, quần áo cho người đó nên ngày này cũng không cần. Đơn thuần là cái tâm, nhớ đến tổ tiên, ông bà thì thành tâm cúng lễ.
Còn với chị Nguyễn Lan Anh, Tây Hồ, Hà Nội lại suy nghĩ hoàn toàn khác. Với chị báo hiếu đâu phải khi đã mất mới cần thiết và quan trọng. Mà khi cha mẹ, ông bà... còn sống thì điều đó còn ý nghĩa gấp trăm ngàn lần. Được con cái chăm sóc sức khỏe, lo miếng ăn, giấc ngủ... là niềm hạnh phúc vô bờ bến của cha mẹ. Hay niềm vui và hạnh phúc đôi khi rất đơn sơ, có thể là cái nắm tay, có thể là lời nói, lời xin lỗi... cũng thể hiện được chữ “hiếu” của người con với cha mẹ.
Mỗi người có một quan điểm, suy nghĩ và cách thể hiện riêng về việc báo hiếu. Tuy nhiên, việc báo hiếu, nhớ về cội nguồn tiên tổ cần nhất là ở tâm mỗi người và không nên lãng phí. Điều quan trọng nhất là thể hiện được tấm lòng của mình đối với cha mẹ, tiên tổ, người đã khuất cũng như còn sống. Không phải cứ đợi đến lễ Vu Lan mới báo hiếu, mà mỗi giây, mỗi phút hay mỗi ngày đều có thể là Vu Lan của bất cứ ai./.
Một số hình ảnh người dân Hà Nội đi lễ chùa ngày Vu Lan:
Chùa Quán Sứ trong những ngày này luôn có hàng nghìn phật tử về lễ phật.
Các phật tử ngồi làm lễ từ trong chùa...
.... cho tới ngoài hành lang.
Nhiều người không có chỗ thì đứng
Lượng người đổ về lễ phật đông nên nhiều đồ lễ phải bày ngoài sân chùa
Hay dưới gốc cây
Nhưng nhiều người đền chùa lại chỉ để mua một cuốn kinh phật
Và phóng sinh những chú chim nhỏ về với tự nhiên

Nhân lễ Vu Lan, nghĩ về đạo hiếu trong văn hóa Việt

VOV.VN-Lễ Vu Lan không còn đơn giản là một nghi lễ Phật giáo mà đã trở thành một nét đẹp trong văn hóa Việt-Văn hóa của đạo hiếu.

Với đại đa số người Việt Nam, truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, tưởng nhớ ông bà, tổ tiên đã trở thành một nét đẹp văn hóa. Ngày Rằm, ngày Tết con cháu thắp hương tưởng nhớ người đã khuất là việc làm đạo hiếu. Nhưng biến tướng những nét đẹp văn hóa thành tục mê tín dị đoan, nhất là việc đốt vàng mã vô tội vạ lại là một thói quen xấu, cần phải loại bỏ trong sinh hoạt đời sống tâm linh của người Việt.
Nhiều người quan niệm rằng “trần sao âm vậy”, đốt thật nhiều vàng mã cho người đã khuất thì mới là thành tâm, mới được nhiều tài lộc, nên cứ mỗi khi đến dịp Lễ Vu Lan, ngày Tết họ tha hồ sắm cho cha mẹ, ông bà tổ tiên của mình các thứ đồ mã “thời thượng” như tivi, tủ lạnh, ô tô, xe máy… Không những thế, họ còn mua rất nhiều lễ vật để cúng tế những vong “cô hồn” không nơi nương tựa.
Việc nhiều người không tiếc tiền mua thật nhiều vàng mã đốt cho cha mẹ, ông bà và “cô hồn”, không biết có đến được “địa chỉ” cần gửi không? Và khi đốt những đồ vật “xa xỉ” như vậy cho người đã khuất, có khi nào họ tự vấn trước đây họ đã “sống” như thế nào với ông bà, cha mẹ của mình, với những người lang thang, cơ nhỡ…
Nếu chỉ nhìn vào “tấm lòng” của họ trong việc “gửi” đồ lễ cho ông bà, tổ tiên trong gia tộc của mình và rộng lòng “biếu” cả những linh hồn lang thang, không nơi nương tựa thì mới thấy lòng tốt của con người bao la biết nhường nào. Nhưng hỡi ôi, với nhiều người, lòng tốt đó chỉ có ở cõi hư vô.
Bởi, chứng kiến nhiều cảnh đối xử giữa con người với con người trong cõi nhân gian mà mới thấy lòng tê tái. Nhiều người sẵn sàng nhảy xổ ra “hôi của” nếu có ai đó gặp nạn, sẵn sàng rút dao giết nhau chỉ vì không chịu được cái “nhìn đểu”, vô cảm lướt qua một người bị nạn, hoặc một người tật nguyền cần giúp đỡ… Ngay ở cổng chùa, nơi họ vừa mới chắp tay thành kính sẽ làm theo lời Phật răn dạy là bố thí giúp người nghèo khổ, hồi hướng công đức... nhưng lại nhẫn tâm bước qua, thậm chí tỏ vẻ khó chịu nếu bị một đứa trẻ ăn xin, một người tật nguyền nào đó “làm phiền”. Cũng ngay ở trong mỗi ngôi chùa, đều có các hòm ủng hộ nạn nhân chất độc da cam, ủng hộ người nghèo nhưng mấy ai đã bỏ tiền vào trong đó, mà chỉ bỏ tiền vào các hòm công đức của nhà chùa để mong được Phật “chứng giám”.
Và nhìn vào con số thống kê của Bộ Văn hóa Thông tin, mỗi năm có khoảng 50.000 tấn vàng mã được sử dụng và riêng tại Hà Nội đã tiêu thụ trên 400 tỉ đồng cho việc đốt vàng mã thì mới thấy lòng tốt của nhiều người thực sự chỉ tồn tại ở cõi hư vô. Cũng số tiền ấy, nếu đem san sẻ với những người tàn tật, những nạn nhân chất độc da cam thì đã có hàng ngàn, hàng vạn người không phải thác gửi thân xác về “cõi âm” chỉ vì không có tiền chữa bệnh.  
Giáo lý nhà Phật đã dạy “Phật tại tâm”. Với những người đã khuất, việc đốt tiền, vàng chỉ là biểu trưng, còn việc báo hiếu với cha mẹ chính là ở tình cảm chân thành của những người làm con. Việc cúng lễ Vu Lan ngoài việc báo hiếu cha mẹ còn là dịp thể hiện truyền thống “tương thân, tương ái” của người Việt. Hiểu đầy đủ ý nghĩa của ngày Lễ này còn phải ở cả sự quan tâm, đùm bọc lẫn nhau giữa con người với con người trong cuộc sống hiện tại.
Bởi vậy, không phải chỉ có đốt vàng mã mới là cách duy nhất để thể hiện tấm lòng của người đang sống đối với người đã khuất, mà hãy làm theo lời Phật dạy là biết bố thí giúp người nghèo khổ, cúng dường trai tăng và phóng sinh, hồi hướng công đức... Đó mới chính là nén tâm nhang quý nhất dâng lên Đức Phật và ông bà, tổ tiên./.
Dù cuộc sống có thay đổi, con người thời hiện đại phải đối mặt với nhiều vấn đề của nhịp sống công nghiệp, thì chữ “Hiếu” vẫn luôn vẹn nguyên ý nghĩa với mỗi con người. Đó chính là sự tôn trọng, trân quý công ơn đấng sinh thành dưỡng dục. Ngày Vu Lan là dịp để mỗi chúng ta nghĩ suy về tình cảm, trách nhiệm của đạo làm con.
Đạo hiếu luôn có sẵn trong tâm thức của mỗi người, đứng đầu tiên trong đạo làm người. Không phải ngẫu nhiên mà trong ngôn ngữ, chữ “Hiếu” lại được kết hợp để thành những từ ghép như: hiếu đạo (đạo làm con), hiếu dưỡng (chăm sóc, nuôi dưỡng), hiếu đễ (kính trọng cha mẹ và tôn trọng anh chị), hiếu thuận (hiếu với cha mẹ và hoà thuận với anh em)...
Ngày lễ Vu Lan, ngoài việc làm cơm cúng gia tiên, cúng chúng sinh ở nhà, mọi người còn lên chùa thắp hương

Đạo làm con phải hiếu kính với cha mẹ - người đã có công sinh thành dưỡng dục giúp ta nên người. Công lao ấy cao tựa Thái Sơn, tinh khiết, thẳm sâu như suối nguồn vô tận. Người làm cha mẹ luôn lấy sự thành đạt của con cái làm vui. Con cái biết giữ gìn nề nếp gia phong, sống kính trên nhường dưới, không đánh mất mình trước những cám dỗ của cái xấu, cũng là cách để thể hiện sự hiếu hạnh với cha mẹ. Chả thế mà báo đáp công ơn cha mẹ thông qua việc phụng dưỡng hàng ngày, chăm sóc lúc ốm đau, bệnh tật... luôn được xem là tiêu chí đầu tiên trong việc đánh giá lòng hiếu thảo của con cái với cha mẹ. Ai không làm được điều này, tệ hơn nữa là ngược đãi, hắt hủi cha mẹ sẽ bị xã hội lên án.
Thật cảm động biết bao, trong tiếng kinh Vu Lan da diết ở nhiều ngôi chùa lớn nhỏ, đã có biết bao giọt nước mắt tuôn rơi khi nghe những vần thơ:
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha
Nước biển mênh mông không đong đầy tình Mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công Cha.

Mù mịt hóa vàng lễ Vu Lan báo hiếu

VOV.VN -Không chỉ tốn kém, việc đốt vàng mã với số lượng quá nhiều còn khiến ô nhiễm môi trường và nguy hiểm.

Cuộc sống cứ hối hả trôi đi. Bố mẹ bận công việc mưu sinh, con cái bận học hành. Có biết bao người ông, người bà, người cha, người mẹ dẫu vẫn sống bên cạnh con cái nhưng không ít lần lặng lẽ khóc thầm vì buồn tủi, cô đơn. Đã có không ít những đứa con bất hiếu đuổi cha mẹ ra khỏi nhà, thậm chí còn đánh đập người đã mang nặng đẻ đau mình vì coi họ là gánh nặng. Người già không nơi nương tựa phải vào trung tâm dưỡng lão, lang thang kiếm sống đã tạo ra áp lực lớn cho xã hội. Đây là tiếng chuông cảnh tỉnh về sự xuống cấp đạo đức của con người trong xã hội hiện đại.
Chẳng biết Vu Lan có từ bao giờ nhưng đó là một ngày lễ mà nhiều nước theo đạo Phật ở châu Á đều tôn thờ. Từ một nghi lễ tôn giáo mang đậm màu sắc văn hóa Phật giáo ấy, Vu Lan dần trở thành một nét đẹp truyền thống của người Việt Nam. Vu Lan là dịp để mỗi gia đình được sum họp, đầm ấm, con cháu hỏi han và chia sẻ với ông bà, cha mẹ những niềm vui, nỗi buồn. Vu Lan là dịp để chúng ta hồi hướng đến ông bà, Tổ tiên đã mất, cầu chúc cho linh hồn họ được siêu sinh tịnh độ, cầu cho cha mẹ mình được hưởng phúc an lành.
Những năm gần đây, trong nhiều ngôi chùa, Vu Lan còn được tổ chức với lễ Bông hồng cài áo. Người được bông trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương không quên cha mẹ đã khuất. Người được bông hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn cha, còn mẹ và sẽ cố gắng để làm vui lòng những đấng sinh thành.
Báo hiếu với đấng sinh thành, mỗi người, có một cách riêng nhưng cần nhất vẫn là sự chân thành. Báo Hiếu không chỉ là sự bù đắp cho cha mẹ đủ đầy vật chất mà quan trọng nhất vẫn là sự quan tâm, chia sẻ bằng những gì bình dị nhất, chân thành nhất. Bởi “miếng trầu không đẹp ở người têm, mà đẹp ở người đem dâng”.
Xã hội không có quyền đối xử tệ bạc và bất công với người già. Là con cháu lại càng không được phép thờ ơ, vô cảm với chính những đấng sinh thành ra mình. Bởi không xã hội nào coi việc ngược đãi, tàn ác với cha mẹ là điều bình thường.
"Trẻ em không nghe người lớn nói gì, nhưng chúng sẽ mở căng mắt ra nhìn xem người lớn làm gì và chúng sẽ làm theo”. Đừng để phải khóc trước mặt con cái khi đã quá muộn, nhất là những việc mà hôm nay, mỗi người có thể làm được cho cha mẹ mình./.
Theo tín ngưỡng dân gian, rằm tháng 7 là ngày cõi âm mở cửa ngục, xá tội vong nhân và cũng là ngày Vu Lan báo hiếu cha mẹ, tổ tiên. Khi cúng rằm tháng 7, người ta thường chia làm hai mâm lễ, cúng tổ tiên tại bàn thờ và cúng chúng sinh ở trước sân nhà.
Những ngày này, mọi nhà chuẩn bị những mâm cỗ cầu kỳ, đầy đủ đồ lễ. Trên mâm cúng tổ tiên thường có mâm cỗ mặn, tiền vàng và hàng mã. Mâm cúng chúng sinh thì lễ vật gồm có quần áo giấy nhiều màu sắc, bỏng ngô, cháo trắng, bánh kẹo, gạo muối… Cùng với việc chuẩn bị cỗ, sắm và đốt vàng mã là một việc không thể thiếu trong cúng lễ.
Với quan niệm “trần sao âm vậy” nên người dân thường mua cả quần áo, nhà cửa, xe ngựa đến những đồ hiện đại như ô tô, điện thoại, ipad... được làm bằng giấy về đốt sau khi hương khói xong.


Sắm và đốt vàng mã là một việc không thể thiếu trong cúng lễ


Họ đốt tiền giấy, vàng mã để cúng cho người quá cố và tin rằng, khi đốt những đồ này thì linh hồn người mất sẽ nhận được, nhờ vậy mà các vong linh ấy đỡ khổ, đỡ vất vả, đồng thời không quấy rầy đến công việc làm ăn, sinh sống của người còn sống, ngược lại còn phù hộ cho người sống được ăn nên làm ra, thăng quan tiến chức...
Không chỉ tốn kém, việc đốt vàng mã với số lượng nhiều còn khiến ô nhiễm môi trường và nguy hiểm đối với các phương tiện qua lại, người đi đường. Nhiều gia đình đốt vàng mã ngay cạnh gốc cây hay dưới lòng đường. Lửa từ đồ vàng mã đốt cháy rừng rực, tàn tro cuốn theo gió bay tứ tung, khói mù mịt cả dãy phố, bụi tàn dính bám vào quần áo người đi đường.
Được biết, năm nay nhiều ngôi chùa đã nghiêm cấm việc đốt vàng mã tại chùa để tránh lãng phí, ô nhiễm. Tuy nhiên, việc đốt vàng mã “tại gia” thì rất khó quản lý. Hơn nữa, việc đốt vàng mã đã ăn sâu vào tiềm thức từ lâu, nên việc tiết kiệm chỉ có thể trông chờ vào ý thức của mỗi người dân./.
Chùm ảnh PV VOV online ghi nhận tại các tuyến phố thủ đô trong 2 ngày 14-15/7 Âm lịch:


Mâm cúng chúng sinh với đồ công nghệ Iphone, Ipad được bày ngay trên dải phân cách tại phố Cửa Nam

Những ngày này, người đi đường dễ dàng bắt gặp cảnh nhiều gia đình cúng Rằm, đốt đồ vàng mã


Cùng với Rằm tháng Giêng, Rằm tháng 7 là thời điểm đồ vàng mã được đốt nhiều nhất


Hầu hết người dân mang vàng mã ra vỉa hè đốt




Khói và tro đốt vàng mã bay khắp nơi

Nhiều người dân đốt vàng mã ngay dưới lòng đường

Lửa đốt vàng mã cháy to, ngay cạnh nhiều xe máy, tiềm ẩn nhiều nguy cơ cháy nổ

Mang vàng mã đốt tại bồn hoa công cộng trên phố Đặng Văn Ngữ (Quận Đống Đa, HN)

Đốt vàng mã nhiều gây lãng phí

Trên vỉa hè, khói vàng mã mù mịt

Tàn tro còn lại sau khi hóa vàng



Không ít gia đình đốt vàng mã trên vỉa hè xong không hề dọn dẹp, gây mất mỹ quan đô thị

Tỏ lòng thành kính ngày Vu Lan

VOV.VN -Rằm tháng 7 hàng năm không chỉ là ngày “xá tội vong nhân”, mà còn là dịp con cháu bày tỏ lòng thành kính, báo hiếu ông bà, cha mẹ

 

Đã thành thông lệ, Rằm tháng 7 hàng năm không chỉ là ngày “xá tội vong nhân”, mà còn là dịp con cháu bày tỏ lòng thành kính, báo hiếu ông bà, cha mẹ. Những ngày này, người dân nói chung và bà con Phật tử nói riêng, ngoài việc chuẩn bị mâm lễ cúng gia tiên, thắp nén hương tưởng nhớ đến người thân đã khuất, còn lên chùa dự lễ Vu Lan báo hiếu.
Hôm nay 20/8 (tức 14/7 âm lịch), trên khắp các con phố của thủ đô Hà Nội, có thể dễ thấy cảnh người dân đang thắp hương cúng chúng sinh ngoài trời, hay hóa vàng cho những người đã khuất.
Mâm cúng chúng sinh của các gia đình thường gồm có xôi, hoa quả, các loại bỏng, oản, gạo muối, vàng mã… Theo quan niệm dân gian, đây là cỗ dành cho những linh hồn lang thang không nơi nương tựa, không còn người thân ở trần gian hoặc các oan hồn. 
Cô Hoa (đường Lạc Long Quân, Tây Hồ, Hà Nội) cho biết: “Vu Lan là ngày lễ quan trọng của người Việt. Năm nào vào ngày này, gia đình tôi cũng làm cơm cúng gia tiên để tỏ lòng thành kính, đồng thời mong tổ tiên sẽ phù hộ độ trì cho gia đình mạnh khỏe, may mắn”.
Còn đối với các bậc phụ huynh, đây cũng là dịp để giáo dục cho con cháu biết về truyền thống của người Việt Nam là luôn nhớ về công sinh thành, dưỡng dục của ông bà, tổ tiên.
Ngoài việc thắp hương cúng gia tiên, cúng chúng sinh, người dân còn quy tụ về các đền, chùa để thắp hương nhân dịp Vu Lan báo hiếu. Các chùa lớn như Quán Sứ, Trấn Quốc, Phúc Khánh… trở nên nhộn nhịp hơn thường ngày bởi sự có mặt của hàng nghìn người dân, Phật tử.
Chùm ảnh người dân đón lễ Vu Lan trên địa bàn Hà Nội:


Trên nhiều góc phố của thủ đô Hà Nội, không khó để gặp những mâm cỗ cúng chúng sinh của người dân

Mâm cúng đơn giản nhưng khá đầy đủ của một gia đình trên đường Bưởi

Sau khi cúng xong, việc tiếp theo là hóa vàng, "gửi" đồ cho người cõi âm



Sắm lễ lên chùa dự lễ Vu Lan

Đồ lễ của người dân, phật tử được sắp đầy các ban thờ

Ngoài việc làm cơm cúng gia tiên, cúng chúng sinh ở nhà, mọi người còn lên chùa thắp hương

Ai cũng tỏ lòng thành kính hướng về cha mẹ, tổ tiên

Không ít các bạn trẻ cũng lên chùa vào dịp lễ Vu Lan

Phật tử thắp hương, dâng lễ

Phật tử đọc kinh Vu Lan báo hiếu tại chùa Trấn Quốc

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét